Tin
Mừng Ga 20,19-31: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa
đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và
nói: "Bình an cho anh em!" Nói xong, Người cho các ông xem tay và
cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông:
"Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh
em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận
lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ
ai, thì người ấy bị cầm giữ." Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma,
cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác
nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu
tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và
không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." Tám ngày sau,
các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông.
Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an
cho anh em!" Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy
nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa,
nhưng hãy tin." Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên
Chúa của con!" Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc
thay những người không thấy mà tin!" Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác
nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách
này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng
Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH (1)
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Lời Chúa: Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31
1. Tôma
Phúc cho những ai không thấy mà tin.
Với đà tiến bộ của khoa học kỹ thuật, con người thường phán đoán
dựa vào những gì họ thấy tận mắt, sờ tận tay, những gì họ cân đo đong đếm, và
kiểm chứng được, thì mới chấp nhận. Tôma có lẽ thuộc týp người này. Tuy nhiên
có những sự con người tiếp xúc thường xuyên, mà vẫn không hiểu, chẳng hạn như
cây cỏ, vạn vật trên hoàn vũ, hoặc một cảnh đẹp, một bông hoa thơm, một trái
ngọt... Con người thưởng thức, nhưng vẫn không biết được nguồn gốc sâu xa của
chúng.
Đứng trước ngôi mộ rỗng, chúng ta ghi nhận hai thái độ khác nhau:
Phêrô thấy mồ rỗng nhưng không tin, còn Gioan đã thấy và đã tin. Trực giác của
Gioan cho ta hiểu rằng: Muốn tin, thì thấy mà thôi chưa đủ, còn phải có tình
yêu. Như thế, người ta không phải chỉ thấy bằng lý trí, không chỉ thấy bằng đôi
mắt, mà còn phải thấy bằng tâm hồn, bằng con tim, như một câu danh ngôn đã bảo:
Con tim có những lý lẽ mà lý trí không thể giải thích.
Xét về một phương diện nào đó, chúng ta có thể nói đức tin có
những lý lẽ mà lý trí không thể nào giải thích. Đức tin có những lý lẽ mà những
ai không tin không thể hiểu được. Chúng ta hiểu được thế giới chung quanh và
con người không chỉ bằng lý trí, bằng khoa học, mà còn cả bằng đức tin nữa. Sự
kiện Tôma cũng cho chúng ta hiểu được rằng: Đức tin đúng nghĩa trước tiên là do
ơn Chúa ban, rồi kế đó, mỗi người phải biến đức tin trở thành một xác tín cá
nhân, phải được củng cố bằng chính trải nghiệm bản thân của từng người.
Nói cách khác, người có đức tin đích thực là người đã có một kinh
nghiệm bản thân trong mối tương quan giữa mình với Thiên Chúa, là kinh nghiệm
cá nhân của riêng mình, do mình xác tín, chứ không phải dựa vào ai khác.
Chính nhờ Tôma, chúng ta được có lời Chúa chúc phúc đầy khích lệ
và đầy thuyết phục: Phúc cho những ai không thấy mà tin. Chính vì chúng ta, vì
con người ở mọi nơi và trong mọi lúc, mà sự kiện Tôma được ghi lại trong Phúc
Âm, để củng cố niềm xác tín của chúng ta vào việc Chúa phục sinh. Cùng với Tôma,
chúng ta hãy tuyên xưng rằng: Chúa đã sống lại thật. Alleluia.
Sau một cuộc giao tranh ác liệt, giữa bao xác chết ngổn ngang trên
trận địa, người ta tìm thấy bức thư của một người lính Nga, đã ngã gục dưới bom
đạn. Bức thư ấy có một nội dung hết sức lạ lùng về lòng tin của một thanh niên
đã từng lớn lên và được giao dục theo chủ nghĩa vô thần. Anh đã nhận thấy Thiên
Chúa thực sự hiện hữu khi nhìn lên bầu trời lấp lánh ánh sao. Anh không chỉ tin
vào Ngài trong đầu óc anh, nhưng trái tim anh đã thực sự rung động khi anh viết
những hàng chữ sau đây để thân thưa với Chúa:
“Lạy Chúa, Chúa có nghe thấy tiếng con hay không? Con chưa hề nói
chuyện với Chúa bao giờ. Nhưng hôm nay con cảm thấy cần phải chào hỏi Chúa. Con
biết rằng ngay từ thời còn thơ ấu, người ta đã không ngừng lặp đi lặp lại với
con rằng: Không có Chúa. Ngài chỉ là một câu chuyện hoang đường. Và con đã tin
thật điều đó. Cho đến những năm tháng khôn lớn, con cũng chưa bao giờ để ý hoặc
chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên. Chỉ đến ngày hôm nay, con mới nhận ra vẻ
đẹp này. Con lặng lẽ chiêm ngắm bầu trời với muôn ngàn tinh tú. Và con biết
rằng Chúa thực sự hiện hữu”.
Từ mẩu tâm sự trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay với
niềm tin của Tôma. Thực vậy, Đức Kitô Phục sinh đã chiếu cố đặc biệt tới ông
khi hiện ra. Chính nhờ vậy mà lòng tin của ông đã được chuyển biến, để rồi ông
đã thưa lên: Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi. Còn chúng ta thì sao?
Dĩ nhiên là chúng ta không có may mắn như Tôma, là được chiêm ngắm
Chúa nhãn tiền. Hiện thời, chúng ta là những người đi trong sương mù. Đức tin
của chúng ta còn nhiều hồ nghi, còn nhiều thắc mắc, còn nhiều trăn trở. Nhưng
có lẽ vì thế mà đức tin của chúng ta có một giá trị to lớn như lời Chúa đã xác
quyết: Phúc cho những ai không thấy mà tin. Mặc dầu chúng ta không nhìn thấy
Chúa, nhưng chúng ta vẫn có thể nhận ra những dấu ấn của Ngài trong thiên
nhiên, như người lính Nga đã nhận ra Ngài khi chiêm ngắn bầu trời lấp lánh ánh
sao. Với trí khôn, khi nhìn ngắm trật tự lạ lùng cùng với những kỳ công trong
vũ trụ, chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa và chúng ta có
thể xác quyết người là một con vật có tôn giáo. Đồng thời thiên nhiên là một
cuốn sách vĩ đại, trong đó, mỗi trang, mỗi dòng đều nói cho chúng ta biết về
Chúa.
Chính vì thế, chúng ta hãy xin Chúa củng cố niềm tin nhỏ bé của
chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ nhận biết Ngài qua Kinh Thánh cũng như qua thiên
nhiên.
Một cơn dịch xuất hiện, dân làng hoảng sợ dắt díu nhau chạy trốn
vào rừng sâu, bỏ mặc những con bệnh đang nằm chờ chết. Trước thảm cảnh này, một
vị linh mục thừa sai đã quyết định ở lại cùng với mấy người thiện chí, ra sức
chạy chữa cho những người mắc bệnh. Nhờ sự hy sinh tận tụy này, cơn dịch bị đẩy
lui, dân chúng trở về làng để tiếp tục cuộc sống.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng
ta ghi nhận được sự sợ hãi của các môn đệ sau ba ngày đen tối.
Thực vậy, mười hai tông đồ là những người nòng cốt được Chúa Giêsu
kêu gọi và huấn luyện. Cả nhóm đã từng hy vọng Ngài sẽ thiết lập vương quốc và
mình thì sẽ làm lớn và chiếm một chức vụ quan trọng.
Nhưng rồi những biến cố đau thương dồn dập xảy đến, làm cho hiện
tại của các ông trở nên đen tối và tương lai thì mù mịt. Một người trong nhóm
đã phản bội, nộp Ngài cho người ta đem đi giết. Con người phản bội ấy đã thắt
cổ vì tuyệt vọng. Còn Phêrô là trưởng nhóm, cũng đã chối Ngài ba lần. Một vài
môn đệ khác đã lên đường trở về quê cũ, như hai môn đệ đi Emmaus.
Từ bối cảnh này, chúng ta thấy mười một người còn lại như bị co
rúm trong căn phòng đóng kín vì sợ người Do Thái. Thế nhưng, chính trong cái
bối cảnh không mấy sáng sủa ấy, Đức Kitô Phục sinh đã hiện ra, nhờ đó mà niềm
tin của các ông được củng cố. Chỉ cần điểm qua những nhân vật của buổi sáng
Chúa nhật Phục sinh, chúng ta sẽ nhận ra điều đó.
Trước hết là Madalêna. Cô tới mộ từ sáng sớm. Khi thấy cửa mộ mở tung, cô nghĩ rằng
người ta đã ăn trộm xác và đem ra khỏi mộ. Và như vậy, cô vẫn chưa tin Chúa đã
sống lại. Cô chỉ tin khi đã được nghe tiếng Chúa Giêsu gọi cô và chính cô được
thấy Ngài.
Kế đến là Phêrô và Gioan. Khi tới mộ, hai ông thấy
khăn liệm và dây băng đã được xếp lại cẩn thận. Phêrô thì bán tín bán nghi,
nhưng Gioan thì đã tin. Còn nhóm mười một đã tiến từ sợ hãi đến niềm tin, khi
các ông được nhìn thấy Ngài. Cuối cùng là Tôma. Ông đã khởi đi từ tình trạng
không tin, nếu mắt không thấy và tay không sờ. Thế nhưng, chính Chúa đã mời gọi
ông đi vào niềm tin ấy.
Qua những nhân vật kể trên, chúng ta thấy tin không phải chỉ là
chuyện chấp nhận một số những tín điều. Trái lại tin chính là gặp gỡ Đức Kitô
Phục sinh và nhận được ơn biến đổi của Ngài. Và ơn biến đổi đầu tiên chính là
nhận ra Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá, nhưng đồng thời đã được sống lại. Đó
là dấu chứng của tình yêu lớn lao nhất khiến các ông tràn ngập niềm vui.
Và hơn thế nữa, qua Đức Kitô Phục sinh, các ông nhận biết Ngài là
Thiên Chúa. Bản tính Thiên Chúa ấy được dấu ẩn trong suốt những năm tháng đã
qua, bây giờ mới được tỏ hiện với tất cả vẻ huy hoàng, để rồi từ đó, với niềm
xác tín sâu xa, các ông đã lên đường rao giảng Tin Mừng Phục sinh cho muôn dân.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự là những chứng nhân cho
Đức Kitô Phục sinh giữa lòng cuộc đời này hay chưa?
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu hiện ra
với các môn đệ trong một căn phòng đóng kín vì sợ người Do Thái. Thân xác vinh
quang của Ngài tựa hồ như một luồng ánh sáng chiếu qua những khung cửa kính. Để
củng cố niềm tin, Ngài cho các ông xem những vết thương trên tay chân Ngài
khiến cho các ông hết sức vui mừng. Rồi Ngài nói với các ông: Như Cha đã sai
Thầy, Thầy cũng sai các con. Điều đó có nghĩa là: Chúa Cha đã sai Ngài đến
trong thế gian để cứu chuộc nhân loại, thì Ngài cũng sai các ông đi để đem lại
ánh sáng và sức mạnh của Tin Mừng cứu rỗi cho muôn dân.
Ngài thổi hơi để thông ban thần khí cho các ông và nói: Các con
hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Các con tha tội ai thì tội người ấy được tha,
các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại. Với tác động của Chúa Thánh
Thần, Ngài đã trao ban cho các ông một uy quyền thiêng liêng, đó là quyền tháo
cởi. Quyền tha thứ và cầm buộc nếu như tội nhân chưa được xứng đáng.
Thế nhưng ngày hôm đó T&ococirc;ma lại vắng mặt, ông đã tỏ ra
cứng lòng khi nghe các môn đệ kể lại sự việc. Chúng ta có thể nghĩ rằng sự cứng
lòng của Tôma là một sai lỗi, là một khuyết điểm may mắn, vì nhờ đó mà chúng ta
có được một bằng chứng về sự sống lại của Đức Kitô, bởi vì các môn đệ không
phải là những người cả tin, dễ nghe theo những lời đồn thổi, nhưng các ông đã
đòi phải có những chứng cớ hiển nhiên.
Cũng chính nhờ sai lỗi và khuyết điểm này chúng ta mới có được
những lời lẽ đầy an ủi của Chúa Giêsu: Vì con đã thấy nên con mới tin, nhưng
phúc cho ai không thấy mà tin. Khi phán những lời ấy, có lẽ Chúa Giêsu đã nghĩ
tới hàng triệu triệu người qua dòng thời gian luôn tin tưởng nơi Ngài, mặc dù
đã không một lần nhìn thấy Ngài trên mặt đất này. Và cũng thật hạnh phúc cho
chúng ta, bởi vì chúng ta chưa được nhìn thấy Ngài, chưa được sờ tới gấu áo
Ngài, chưa được nghe Ngài nói, chưa được chứng kiến những phép lạ Ngài làm,
cũng như chưa được ăn và uống với Ngài. Nhưng chúng ta đã tin tưởng nơi Ngài
dựa vào những chứng cớ của các tông đồ, là những người đã dám chết để làm chứng
cho sự phục sinh của Đức Kitô.
Thánh Gioan đã viết trong sách Phúc Âm như sau: Sở dĩ một số các
phép lạ được kể lại là để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng cứu thế, đồng thời
nhờ niềm tin tưởng này mà anh em có được sự sống, dĩ nhiên đó phải là sự sống
vĩnh cửu mà chính Ngài muốn đem đến cho thế gian.
Chúng ta hãy Chúa xin củng cố niềm tin của chúng ta, để một khi đã
xác tín việc Chúa sống lại, chúng ta cũng sẽ mạnh dạn làm chứng cho Chúa như
các môn đệ ngày xưa.
(Suy niệm của Lm Trịnh Ngọc Danh)
Sau khi sống lại, vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu đã hiện
ra lần thứ nhất với các tông đồ, nhưng vắng mặt ông Tôma. Ngài đã chúc bình an
và cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài. Các môn đệ vui mừng vì đã được xem
thấy Chúa, và họ đã cho ông Tôma biết: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”; nhưng ông
này cương quyết: “ Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không
thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì
tôi không tin.”
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà; lần này có mặt
ông Tôma. Chúa Giêsu lại hiện ra lần thứ hai cùng các ông. Sau khi chúc bình
an, Ngài đã cho ông Tôma xem những dấu đanh nơi bàn tay và vết thương nơi cạnh
sườn Ngài và đã khiển trách ông: “ Chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Và ông Tôma
chỉ còn biết kêu lên: “ Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi”. Và Ngài nói tiếp với
ông: “ Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã
không thấy mà tin”.
Đã xem thấy, đã tin
Cũng như các môn đệ khác, ông Tôma cũng đã từng được nghe những
giáo huấn của Chúa, đã được xem thấy những việc kỳ lạ Ngài đã làm, và cũng được
nghe Ngài tiên báo về cái chết và sự phục sinh của Ngài...; nhưng ông vẫn còn
bán tín bán nghi về việc chết đi sống lại của Thầy mình; vì, Chúa quyền năng có
thể làm cho người chết sống lại như trường hợp ông Lagiarô thì còn hiểu được;
nhưng đàng này, chính Chúa lại phải chết và lại tự cho mình sống lại thì thật
là một việc quá sức tưởng tượng của ông: Làm sao lại có thể có chuyện ấy được!
Và đức tin của ông đã bị chao đảo! Ông nghi ngờ đòi cho được tận mắt thấy những
dấu đanh nên thân thể Chúa mới tin cũng phải thôi, vì ông đã một lần thất vọng
khi thấy Thầy, một Đấng quyền phép mà ông đã tin, lại phải chịu nhục hình cho
đến chết trên thập giá. Cũng còn may là ông còn lui tới với cộng đoàn, không
như hai môn đệ trên đường Êmau, sau khi Thầy chết, đã thất vọng, sợ hãi tìm
đường trốn chạy. Điều đó cho thấy ông vẫn còn tin tưởng vào Thiên Chúa, vẫn còn
muốn đạt đến một đức tin viên mãn để được cứu độ.
Tuy bị Thầy khiển trách là cứng lòng tin, nhưng qua đó, ông đã
thấy và ông đã tin. Đức tin của ông đã được củng cố cho vững mạnh hơn bao giờ
hết đến nỗi ông đã kêu lên: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi”.
Cũng không phải chỉ có ông Tôma mới nghi ngờ sự sống lại của Thầy
mình, mà ngay chính những người được tận mắt thấy ngôi mộ trống cũng bán tín
bán nghi.
Ngày thứ nhất trong tuần, từ sáng tinh mơ, các bà mang theo thuốc
thơm đã chuẩn bị sẵn. Thấy hòn đá đã lăn ra khỏi mồ, bước vào trong, không thấy
xác Chúa, bà Maria Mađalêna đã hốt hỏang chạy về báo: “ Người ta đã lấy xác
Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu” ( Ga 20: 2);
và đang khi còn ngơ ngác, vào trong mồ, thì thấy một thanh niên ngồi bên phải,
mặc áo dài trắng, nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà: “ Các bà đừng
sợ. Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nagiareth chịu đóng đinh, nhưng người đã sống
lại…”. Các bà chạy ra và trốn khỏi mồ, vì các bà run rẩy bàng hoàng. Các bà
không nói gì với ai, vì các bà sợ hãi... (Mc. 16, 6-8)
Trở về nhà, các bà thuật lại cho các tông đồ; “nhưng những lời đó,
các ông cho là truyện vớ vẩn, nên các ông không tin” (Lc. 24,11)
Vì không thấy, nên ông Tôma chỉ đòi hỏi thấy mới tin, nhưng các bà
và các tông đồ đã thấy, đã nghe nói về việc ngôi mộ trống, về việc Chúa đã sống
lại, thế mà các bà thì sợ hãi cho là ma, còn các ông thì cho đó là truyện vớ
vẩn. Ai là người kém lòng tin hơn ai?
Hơn nữa, đứng về phương diện đức tin, thì có thể ông Tôma là người
cứng lòng tin, nhưng đứng về phương diện khoa học, thì sự nghi ngờ của ông lại
là điều cần thiết để tìm ra sự thật. Nếu khoa học kiểm chứng được những gì chúng
ta phải tin, thì những điều chúng ta tin mà khoa học khám phá, chứng minh được,
thì cũng chẳng còn gì là siêu việt đối với trí óc của con người.
Ông Tôma cứng lòng tin, vì ông muốn lấy lý trí để củng cố cho lòng
tin của ông. Có thể ông đã nghĩ rằng: Nghe người ta nói Chúa đã phục sinh chưa
đủ, tôi còn phải tận mắt nhìn thấy Ngài, và phải được tiếp cận thân thể đầy
thương tích của Ngài, thì tôi mới tin.Và cuối cùng, Tôma đã thấy và ông đã tin:
“Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi”.
Việc ông Tôma đòi hỏi được nhìn, được sờ, được kiểm chứng Đấng
Phục sinh không chỉ là một đòi hỏi cho riêng ông, nhưng cũng là một chứng tích
cho chúng ta hôm nay.
Đã không thấy mà tin
Và sau khi nhân định về lòng tin của ông Tôma: Vì con đã thấy và
con đã tin; Chúa lại đưa ra một mẫu lòng tin khác được chúc phúc; đó là: Phúc
cho những ai đã không thấy mà tin”.
Qua sự việc của ông Tôma, Chúa đã gián tiếp nói với chúng ta là
những người sinh ra “hậu Phục sinh”, những người đã không thấy Chúa sống, chết
và phục sinh, nhưng chúng ta tin. Chúng ta chỉ được đọc, được nghe về Thiên
Chúa, về Người Con Duy Nhất của Thiên Chúa xuống thế làm người vì yêu thương
con người, để rồi chịu chết và đã phục sinh…; nhưng chúng ta không được may mắn
như dân Chúa xưa kia hay gần gũi hơn là các môn đệ đã thấy và đã tin.
Cám ơn các tông đồ và đặc biệt cám ơn ông Tôma đã giúp chúng ta
xác tín mạnh mẽ hơn về việc Chúa sống lại, về lòng tin của mình.
Từ ngàn xưa, con người nói chung và con cái Thiên Chúa nói riêng
đã thấy, đã tin, nhưng vẫn còn vô số người đã thấy, nhưng vẫn chối từ, vẫn
không tin. Đã không thấy mà tin là một đòi hỏi rất khó đối với đức tin, đồng
thời cũng là một yếu tố xác định mức độ lòng tin của chúng ta.
Đức tin và bình an
Trong cuộc hành trình đức tin, những người đã không thấy mà tin và
ngay cả những người đã thấy và đã tin vẫn luôn gặp những trở ngại, nghi ngờ, lo
lắng, bất an.
Các môn đệ, sau cuộc “bức tử” của Thầy Giêsu, họ đã hoang mang, lo
lắng, sợ sệt, bất an: số phận của họ rồi sẽ ra sao? Ai sẽ là người hướng dẫn để
tiếp tục công việc của Thầy?... Tụ lại với nhau, nhưng cửa đóng then cài.
Và những người đã không thấy mà tin thì sao? Đức tin của chúng ta
ở mức độ nào? Chúng ta tin, nhưng đã sống và chết vì đức tin như thế nào?
Đức tin chưa đủ mạnh, chưa quyết liệt, chưa xác tín..thì luôn gặp
những bất an. Thử thách, gian nan, khổ cực là thước đo đức tin, là những bất an
trong tâm hồn.
Hiểu được tâm trạng lo lắng, sợ sệt, bất an của các môn đệ, nên
qua hai lần hiện ra với các ông sau khi sống lại, lời trấn an đầu tiên mà Chúa
gửi đến các ông là: “Bình an cho các con” và Ngài hứa sẽ sai Thánh Thần xuống
để cùng đồng hành với họ. Như thế là họ sẽ được bình an, được an tâm để lên
đường tiếp tục công việc của Thầy, không còn phải lo lắng, hoang mang.
Và cũng hiểu được tâm trạng bất an của chúng ta ngày nay, Chúa
cũng đã chúc bình an và hứa với chúng ta rằng: “Thầy sẽ xin Cha Thầy, và Người
sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác để Ngài ở với các con luôn mãi”. (Ga.
14,15). Cũng như các môn đệ họp nhau vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đã hiện
ra và chúc bình an cho họ, ngày Chúa nhật họp nhau tham dự Thánh Lễ, chúng ta
cũng đón nhận bình an của Thiên Chúa và chúc cho nhau bình an của Ngài để rồi
lại ra đi trong bình an của Ngài đến với anh em. Bình an ấy là kết qủa của đức
tin.
Chúng ta là những người “đã không thấy mà tin”, và đã được Chúa
chúc phúc; vì, như Thánh Gioan Tồng đồ đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Ai
tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, thì kẻ ấy sinh bởi Thiên Chúa, và ai yêu mến
Đấng sinh thành, thì cũng yêu mến kẻ sinh ra bởi Đấng ấy. Cứ dấu này chúng ta
nhận biết rằng chúng ta yêu mến con cái thiên Chúa, là khi chúng ta yêu mến
Thiên Chúa và thực hành các giới răn Người…, và giới răn Người không nặng nề.
Vì những gì sinh bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây là cuộc thắng
trận thế gian, là chính đức tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian
nếu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Chiên Chúa? (1Ga. 5,1-6)
Đức tin đem lại cho chúng ta bình an của Thiên Chúa. Không những
chúng ta phải tuyên xưng đức tin mà còn phải sống đức tin: “Một thân xác không
hơi thở là một xác chết; cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.”
(Gc. 2,26)
Trong một cuộc hội thảo về tôn giáo, viên kỹ sư thao thao bất
tuyệt chứng minh tôn giáo chỉ là thuốc phiện mê hoặc dân chúng. Thế nhưng khi
bàn bạc và trao đổi, thì một cụ già đã phát biểu như sau: - Theo tôi thì khoa
học chỉ là chuyện bịa đặt và láo khoét. Viên kỹ sư ngạc nhiên hỏi cụ già tại
sao nói thế, thì cụ già đã trả lời: - Ngài chẳng biết gì về tôn giáo, nhưng lại
lên tiếng chỉ trích tôn giáo, thì tôi đây, tôi chả biết gì về khoa học, thì
liệu tôi có quyền phê bình khoa học như tôi vừa phát biểu hay không?
Khoa học và đức tin, phải chăng là hai thái cực đối nghịch. Làm
thế nào để dung hòa đức tin và khoa học.
Từ những ý nghĩ trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng sáng hôm nay
và chúng ta có thể nói: Thánh Tôma, nếu không phải là thánh tổ của các nhà khoa
học thì cũng là một vị thánh có tinh thần khoa học, bởi vì các nhà khoa học chỉ
tin, chỉ công nhận là thật những gì mình có thể kiểm chứng được. Nhà khoa học
trước khi tin, thường nghi ngờ. Cái đó gọi là óc phê bình.
Jean Guitton đã nói: Tôi luôn hoài nghi. Chính vì hoài nghi mà tôi
có được óc phê bình, nhờ đó mà tôi có thể tin vững chắc. Tuy nhiên, liệu chúng
ta có quyền xử dụng óc phê bình trong lòng tin hay không? Dẫu muốn hay không,
thì trong quá trình của lòng tin, chúng ta thường gặp rất nhiều nghi ngờ như
Bernanos đã nói: Tin là hai mươi bốn giờ nghi ngờ trong một ngày, trừ những
giây phút trông cậy. Làm sao chúng ta có thể dung hòa được giữa khoa học và tôn
giáo, giữa lý trí và đức tin. Nếu phân tích, chúng ta sẽ thấy điểm cuối cùng
của khoa học và đức tin nhằm tới chính là Thiên Chúa, tuy nhiên phương pháp xử
dụng thì khác biệt nhau.
Phương pháp của khoa học là phương pháp thực nghiệm, đi từ những
sự việc cụ thể, để rồi dần dần tiến đến cùng Thiên Chúa, là tác giả của những
sự việc cụ thể ấy. Trong khi đó, đức tin thì xuất phát từ Thiên Chúa dựa vào
những điều Ngài mạc khải, Ngài tỏ lộ để tìm biết về Ngài. Cũng theo Jean
Guitton, thì phải làm sao cho lý trí biết tin và nhất là làm cho lòng tin trở
nên có lý. Đó là chuyện của các nhà chuyên môn.
Còn đối với chúng ta, những người tín hữu bình thường thì không
đặt vấn đề như thế. Chúng ta thường nói tin yêu. Càng yêu mến nhiều, thì càng
tin tưởng vững chắc. Và những người có lòng kính mến Chúa thì thường không cần
phải tin, vì họ đã thấy.
Đây là trường hợp của Gioan, khi nhìn thấy bóng người đi trên mặt
biển, trong khi các tông đồ bảo là ma, thì chỉ mình Gioan đã kêu lên: Thày đấy.
Rồi trong ngôi mộ rỗng, với những dây băng và khăn liệm được xếp
gọn ghẽ, thì Gioan đã tin rằng Chúa đã sống lại. Sở dĩ Gioan đã thấy, đã tin
chỉ vì ông có lòng yêu mến. Bởi đó, chúng ta hãy xin Chúa thắp lên trong chúng
ta ngọn lửa yêu mến, nhờ đó mà lòng tin nhỏ bé của chúng ta sẽ được củng cố và
trở nên vững vàng.
(Barbara E. Reid, O.P – Nữ Tu Đaminh thuộc cộng đoàn Đaminh
ở Grand Rapids, Michigan, Giáo sư môn Tân Ước tại Đại Học Công Giáo ở Chicago,
Illinois, và là phó trưởng khoa tại Đại Học này. - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Ngài thổi hơi vào các ông và nói với họ: Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22)
Để xác định một người đã chết, ngày xưa người ta thường đặt một
tấm gương dưới hai lỗ mũi của thi hài người chết để xem người đó còn thở hay
không. Ngày nay, với phương pháp đo điện tâm đồ và kiểm tra hoạt động của phổi,
người ta sẽ kết luận một người đã chết thực sự khi họ ngưng thở hoàn toàn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Kitô Phục Sinh đã “thổi hơi sự sống” vào buồng
phổi nhỏ bé của cộng đoàn những người tin, giải thoát họ khỏi sợ hãi, làm cho
họ được lưu thông huyết mạch đức tin để họ có thể cùng nhau “thở” và sống cách
sung mãn cho sứ mệnh được gửi trao.
Các môn đệ đầy sợ sệt đang co rúm lại với nhau trong căn phòng
đóng kín cửa vì “sợ người Do Thái”. Sau khi Đức Giêsu bị hành quyết, nỗi khiếp
sợ này cũng dễ hiểu, vì họ sợ sẽ đến lượt mình. Trong Tin Mừng của Thánh Gioan,
từ ngữ “Người Do Thái” đồng nghĩa với những con người không tin vào Đức Giêsu,
và chống đối Ngài, cho dầu chính Đức Giêsu và những học trò đầu tiên của Ngài
cũng là người Do Thái. Đối tượng sự sợ hãi nơi các môn đệ, chính là những người
cũng giống họ về người gốc dân tộc, nhưng khác họ ở niềm tin vào Đức Giêsu.
Đôi khi, điều làm chúng ta khiếp sợ nhất là phải trực diện những
gì chúng ta không muốn xảy ra cho mình như đã từng xảy ra cho người khác. Giữa
lúc sợ hãi cao điểm như thế nơi các tông đồ, Chúa Giêsu đã hiện ra và đến với
họ, mời gọi họ đón nhận sự bình an mà Ngài mong muốn đem đến cho họ. Đó không
phải là sự bình an cất giấu đi sự tàn bạo hằn sâu nơi thân thể Ngài, khi Ngài
vạch mở cho họ thấy những vết thương lồ lộ vẫn còn nguyên trạng nơi xác thân
Ngài. Nhưng đó là sự bình an với nhận thức đầy đủ về sự khủng khiếp đối với
những gì đã xảy ra nơi cái chết của Chúa, nhưng bình an sẽ đến trong tiến trình
chữa lành những vết thương đó, trong tinh thần tha thứ và hoà giải chứ không
phải là bạo lực hay oán thù. Ngắm nhìn những vết tích nơi thân thể Chúa, phải
có một cái nhìn khác. Không phải là một cái nhìn mang tính hận thù, nhưng là
một cái nhìn được Chúa Kitô khởi dẫn để chữa lành, với tinh thần và bình an của
Ngài, để giúp các môn đệ thoát vượt sợ hãi, vươn tới niềm vui thực sự.
Kết quả, chính là sự hồi sinh của cộng đoàn. Cũng giống như Đấng
Tạo Hoá ban đầu đã thổi hơi vào lỗ mũi của nguyên tổ để trao ban sinh khí (St
2,7), Đức Kitô Phục Sinh cũng đem lại sự sống cho cộng đoàn những kẻ theo Ngài,
đang trong cơn khiếp sợ. Đây không phải là một tiến trình dễ dàng, không gây
nhức nhối.
Tôi có một người bạn bị viêm phổi nặng, sự đau đớn ghê gớm mà
người bạn đó đã kinh qua khi buồng phổi đang bị tàn phá khủng khiếp, làm tôi
liên tưởng gần sát với những khó khăn mà những học trò của Đức Giêsu đã trải
qua trong tiến trình biến đổi đức tin. Trước khi thụ nạn, Đức Giêsu đã nói với
họ về những thống khổ như là nỗi đau quặn của một phụ nữ khi sinh nở, để sau đó
có được niềm vui khi một mầm sống mới được khai sinh (Ga 16, 20-22).
Đối với vài người trong nhóm họ, sự tái sinh này xảy ra vào ngày
thứ nhất trong tuần sau khi Đức Kitô Phục Sinh. Nhưng không phải tất cả đã hiện
diện ngày hôm ấy và đã cảm nghiệm được giai điệu huyền nhiệm này. Tuần sau, vài
người trong họ vẫn còn sợ và đóng kín cửa. Họ vẫn đưa ra những điều kiện dường
như bất khả thi để có thể tin. Tôma đã lên tiếng bộc lộ sự nghi ngại “Tôi cần
phải thấy tận mắt, sờ tận tay, mới tin.” Đây không phải là một sự phản kháng
ngoan cố trước những gì các bạn hữu khác đã trải nghiệm và truyền đạt lại,
nhưng thực sự Tôma muốn nói lên rằng mọi người và từng mỗi người cần được tiếp
cận trực tiếp với Đức Kitô để có thể tin.
Ở đây, không có chuyện Tôma đã thể hiện một thứ đức tin hạng hai.
Chứng tá của các bạn khác dẫn ông đến với Đức Giêsu, nhưng không thay thế cho
kinh nghiệm của chính bản thân ông để có thể thấy được nhãn tiền, khi ông cần
phải gặp gỡ Đức Giêsu một cách trực tiếp, cũng như từng người một trong nhóm
họ. Tin Mừng cho phép người ta có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau để có
được đức tin. Một vài người có thể thủ đắc đức tin bằng việc nhìn thấy, những
người khác có thể không cần. Cả hai thái độ này đều tốt và được Chúa chúc lành.
Cách thức đến với đức tin, điều đó không quan trọng, trong một cộng đoàn mà đức
tin luôn được toan tính cẩn thận, nhưng trong đó mọi người cùng “thở” chung với
nhau bằng hơi thở của Thần Khí, Đấng sẽ đẩy lùi mọi sợ hãi bằng khí cụ của bình
an, của sự tha thứ và của sự giao hoà.
Truyện kể: Một võ sĩ đã trở lại đạo. Ngày kia, người bạn của anh
gặp mặt và hỏi: Tôi nghe anh mới tòng giáo, thật tức cười. Võ sĩ nói: Sao lại
tức cười, đó là điều tốt mà anh. Người bạn nói thêm: Nếu vậy, liệu anh xoá nổi
chân tướng du côn cao bồi trước chăng? Những vết sẹo trên mặt anh sẽ tố cáo
tung tích của anh. Võ sĩ trả lời: Tôi không ngại chi về điều đó. Những vết sẹo
kia, nay trở thành cửa sổ cho ơn Chúa chảy vào hồn tôi. Cũng vậy, những tội của
chúng ta đã được tha, tuy còn dấu vết, nhưng là dấu vết của tình thương Chúa
vậy.
Đôi khi chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu còn giữ những vết sẹo
trên lòng bàn tay, bàn chân và cạnh sườn từ khi bị đóng đinh thập giá? Vì khi
Chúa Phục Sinh, Chúa có thể chọn bất cứ hình hài và thân xác hoàn hảo như các
thiên thần. Khi xuất hiện, Chúa đã giữ nguyên những vết sẹo để các môn đệ có
thể thấy và có thể sờ chạm. Tông đồ Tôma tỏ ra nghi ngờ, đã được Chúa mở lòng:
Rồi Người bảo ông Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy.
Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."
(Ga 20,27). Sự kiện Chúa Kitô Phục Sinh sẽ không hoàn toàn thuyết phục, nếu
không có những vết sẹo trên tay, chân và cạnh sườn của Chúa. Chúng ta biết khi
con người mơ ước, ai trong chúng ta cũng ước mong có khuôn mặt tươi tắn, hàm
răng đẹp, làn da mịn màng và thân hình thon đẹp. Chúng ta mong ước một thân xác
hoàn hảo không vết nhăn. Nhưng Chúa Kitô Phục Sinh đã xuất hiện một cách ngoại
thường, trên thân mình vẫn mang những vết sẹo hằn sâu để nhắc nhớ chúng ta sự hy
sinh đau khổ để cứu chuộc nhân loại.
Chúng ta đặt niềm hy vọng vào những vết sẹo nơi thân xác Chúa
Kitô. Trong các nhà thờ Công giáo, nơi gian cực thánh, treo hình tượng Chúa
Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá với mạo gai trên đầu, chân tay và mình mẩy
đầy thương tích loang máu đào. Vết sẹo nơi cạnh sườn như còn rướm máu. Giáo Hội
không lùi bước chỉ nhìn vào đau khổ và chết chóc, nhưng Giáo Hội muốn mọi tín
hữu cùng chia sẻ, cảm thông và lãnh nhận ân sủng cứu độ qua giá máu châu báu
của Chúa. Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Kitô đã trao ban sứ mệnh cho các
Tông đồ: Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã
sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." (Ga 20,21). Các Tông đồ là những nhân
chứng sống động và chân thành. Với ơn trợ giúp và quyền năng của Chúa Thánh
Thần, các ngài đã can đảm ra đi truyền rao ơn cứu độ. Ra đi với hai bàn tay
trắng, các tông đồ không có tiền bạc, địa vị, học vị hay cơ sở vật chất. Các
ngài đã lãnh nhận nhưng không và giờ đây cũng đem Tin Mừng biếu không: Nhiều dấu
lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông đồ (Cv 5,12).
Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện với các Tông đồ qua quyền năng của
Ngài. Chúa trao cho các ngài uy quyền chữa lành tất cả các bệnh hoạn tật nguyền
và xua trừ ma quỷ. Rất nhiều người đã tuôn đến xin ơn lạ và lãnh nhận ơn cải
đổi tâm hồn: Nhiều người từ các thành chung quanh Giêrusalem cũng lũ lượt kéo
đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều
được chữa lành (Cv 5,16). Hạt giống đức tin được gieo vào lòng người. Từng tâm
hồn hối cải trở về với Chúa. Họ đã được lãnh nhận ơn sủng chữa lành phần xác và
tô điểm tâm hồn. Họ là những tín hữu nồng cốt xây dựng Hội Thánh sơ khai trên
trần thế. Giáo Hội bắt đầu nẩy mầm và phát triển sinh hoa kết trái: Càng ngày
càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông (Cv 5,14).
Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia. Điều vô cùng
quan trọng là Chúa Giêsu trao ban quyền tháo cởi và cầm giữ cho các tông đồ.
Các tông đồ nhận lãnh ơn chữa lành và thực hành các phép lạ để đặt nền móng cho
Giáo Hội sơ khai. Nhưng chìa khoá của sự tháo cởi và cầm buộc tinh thần được
lưu truyền qua ngàn muôn thế hệ. Thánh Gioan diễn tả rằng Chúa Giêsu trực tiếp
ban ơn: Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh
Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì
người ấy bị cầm giữ." (Ga 20,22-23). Chúa Giêsu thấu tỏ sự ương ngạnh cứng
cỏi cũng như sự yếu đuối thấp hèn và tội lỗi của con người. Chúa đã lập Bí tích
Hoà Giải để mọi người có cơ hội hối lỗi trở về với lòng nhân từ của Chúa. Chúa
tin tưởng vào quyền tài phán của các tông đồ và những người kế vị. Chúa đã trao
quyền cho Giáo Hội qua biểu tượng của chiếc chìa khoá Thánh Phêrô. Biết rằng
trao chìa khoá cho ai là đặt niềm tin tưởng nơi người đó.
Trong Sách Khải Huyền, Gioan đã được thị kiến sự lạ lùng vượt trên
lòng trí, Chúa Kitô đã mạc khải: Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay Ta
sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ (Kh 1,18).
Sau khi phục sinh từ cõi chết, Chúa Kitô là chủ của sự sống và không còn chết
nữa. Chúa đã chiến thắng tử thần và tội lỗi. Ngài về trời ngự bên hữu Chúa Cha
và mọi đầu gối sẽ quỳ phục dưới chân Ngài. Chúa Kitô có uy quyền trên hết mọi
loài, mọi vật, sự sống và sự chết. Niềm tin vào Chúa Kitô sống lại là niềm hy
vọng vào sự sống viên mãn đời đời. Thánh Gioan được linh hứng để viết sách Khải
Huyền: Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì
sẽ xảy ra sau này (Kh 1,19). Khải Huyền là cuốn sách cuối cùng của bộ Tân Ước.
Có rất nhiều chi tiết cao siêu như trên các tầng trời, chúng ta chẳng thể hiếu
thấu. Chúng ta chỉ có thể nhận diện được phần nào những điều đã qua hoặc đang
diễn ra trong cuộc sống mà thôi. Tương lai ngày mai phó thác trong bàn tay quan
phòng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu nhắc nhở các Tông đồ: "Vì đã thấy Thầy, nên anh
tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" (Ga 20,29). Các Tông đồ đã
được diễm phúc nhìn thấy Chúa Phục Sinh nhãn tiền. Các ngài được gặp gỡ, ngồi
chung bàn bẻ bánh, đàm thoại, ăn uống và được Chúa ban bình an chúc lành. Các
Tông đồ sẵn sàng ra đi làm nhân chứng. Làm nhân chứng là phải đối diện với sự
sống sự chết. Tất cả mười một vị Tông đồ đã đổ máu đào chứng minh niềm tin sắt
son vào Chúa Kitô Phục Sinh. Thánh Gioan là nhân chứng sống động cho tình yêu
Chúa. Mọi lời rao giảng dạy dỗ của Thánh Gioan đều quy về tình yêu và lòng
thương xót của Chúa. Các Tông đồ đã can đảm sống cho tình yêu và chết cho tình
yêu.
Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Mỗi ngày
chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô qua việc ghi dấu thánh giá trên mình. Chúng ta
tuyên xưng Chúa là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, là Thầy và là
Chúa. Tin vào Chúa là lắng nghe và thực hành lời Chúa. Chúa đã mở cửa rộng rãi
đón nhận và chúc phúc cho mọi người: Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai
nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành (Lc 8,21). Nước Chúa rộng mở đón nhận
mọi thành phần, nhưng điều quan trọng là chúng ta cần tin tưởng vào tình yêu
của Chúa và tuân giữ lời Ngài. Vì đức tin không có thực hành thì đức tin chỉ là
những triết thuyết viển vông và trống rỗng.
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta cử hành mầu nhiệm sự chết và
sống lại của Chúa Kitô. Chúng ta sẽ loan truyền ơn cứu độ cho tới khi Chúa lại
đến. Lạy Chúa, những vết sẹo nơi thân mình đã nhắc nhở chúng con về lòng thương
xót vô bờ của Chúa. Xin nguồn bình an và ân sủng của Chúa Kitô Phục Sinh tràn
đổ trên tâm hồn mỗi người chúng con. Amen.
CON ĐƯỜNG TIẾP NHẬN CHÚA QUA VIỆC NGÀI HIỆN RA
Niềm tin vào Chúa Phục Sinh khởi đi từ sự kiện mồ trống. Trong
ngày thứ nhất trong tuần, các bà đạo đức phát hiện thấy mồ trống nên chạy về
báo tin cho các môn đệ Chúa Giêsu về những điều xẩy ra xung quanh ngôi mộ. Hai
môn đệ Gioan và Phêrô cùng chạy ra mộ Chúa. Phêrô đi vào trong mộ và chứng kiến
những tấm khăn liệm và dây băng cuốn xác Chúa được gấp cuộn hẳn hoi. Chứng kiến
sự kiện này, thánh Gioan thuật lại niềm tin của các môn đệ: Các ông đã thấy và đã
tin rằng Chúa đã sống lại.
Tuy nhiên, tin Chúa phục sinh nơi các môn đệ không dừng lại nơi sự
kiện mồ trống, Chúa còn cho họ gặp Ngài nhiều lần bằng việc hiện ra với họ.
Chúa Nhật II PS nhấn mạnh khía cạnh khác của đức tin: đó là con
đường tiếp nhận Chúa qua việc Ngài hiện ra. Như vậy, đức tin vào Chúa Phục Sinh
vừa được xây dựng trên sự kiện lịch sử (mồ trống), vừa trên sự gặp gỡ tiêp xúc
siêu nhiên. Chúa hiện ra hôm nay hoàn toàn thần thiên, vì cửa đóng then cài mà
Ngài vẫn xuất hiện giữa các ông. Sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu đi
vào trong cõi thần thiên, Ngài không còn bị lệ thuộc thời gian và không gian
nữa.
Thánh Gioan cho biết, Chúa hiện ra vào ngày thứ nhất trong tuần và
lại hiện ra vào “Tám” ngày sau, và đều hiện ra vào lúc các môn đệ đang hội họp.
Các môn đệ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần, chính là ngày chúa nhật, ngày
Giáo Hội mừng ngày Chúa Phục Sinh. Việc các môn đệ hội họp trong ngày ấy, chính
là cử hành bí tích thánh thể.
Cử hành bí tích thánh thể là cách cụ thể hiện tại hóa của tử nạn
và phục sinh của Chúa, nên các môn đệ được tiếp xúc với chính Chúa. Các dấu
đinh ở tay, chân và cạnh sườn, chính là lời tuyên xưng của Giáo Hội vào mầu
nhiệm thánh thể. Qua cử hành thánh thể, Chúa Giêsu thực hiện cuộc thương khó và
phục sinh của Người các bí tích trên bàn thờ.
Trong việc cử hành thánh thể, các tông đồ gặp gỡ đấng phục sinh và
nhờ đó đức tin các ngài được củng cố và gia tăng.
Ngày nay, cũng một thể thức ấy, Giáo Hội cử hành thánh thể nhằm
tái diễn cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Giáo Hội tin rằng Chúa hiện diện
cách đích thực trong bí tích thánh thể và chính tại nơi đây Ngài ban thêm đức
tin cho chúng ta.
Nghe Lời Chúa và cử hành mầu nhiệm thánh thể hằng ngày của cộng
đoàn chúng ta là cách tích cực nhất để gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh, nhờ đó đức
tin của mỗi người chúng ta mạnh mẽ thêm.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn ý thức sự hiện diện đích thực của
Chúa Giêsu nơi bí tích thánh thể, mà siêng năng cử hành và rước mình máu thánh
Ngài để mỗi ngày chúng ta được lớn lên đạt tầm vóc viên mãn của Đức Kitô, nhờ
đó chúng ta luôn được ơn an bình của Chúa Phục Sinh, đồng thời có nhiệt huyết
tông đồ lên đường làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người, để cả thế giới được
hương ơn phục sinh của Chúa.
Xin được chọn câu Lời Chúa: Phúc cho những ai đã không thấy mà
tin, làm châm ngôn cho ngày sống hôm nay để luôn ý thức sự hiện diện của Chúa
nhờ đó đức tin của chúng ta mỗi ngày được mạnh mẽ và sốt sáng hơn. Amen.
Cả bốn Tin mừng đều thuật lại những lần hiện ra của Chúa Phục Sinh
với những cá nhân (Ga 20,14-17; Mt 278,5-7; Lc 24,25-31; Mc 16,9-13) và những
nhóm môn đệ khác nhau (Mt 28,16-20;Lc 24,36-49;Ga 21,1-23).
Tường thuật Chúa Phục Sinh đến với Nhóm Mười Hai vào ngày thứ nhất
trong tuần có một tầm quan trọng đặc biệt. Nhóm Mười Hai trở thành nền tảng của
cộng đoàn Phục Sinh, thành những chứng nhân mắt thấy tai nghe về Chúa Phục
Sinh, để loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người ( x. Cv 4,20).
Khi Chúa đến với Nhóm Mười Hai lần đầu tiên vào chiều ngày thứ
nhất trong tuần thì Tôma vắng mặt. Các Tông đồ đã nói với ông: "Chúng tôi
đã được thấy Chúa"(Ga 20,25). Đây vừa là lời tuyên xưng đức tin vừa là lời
làm chứng về Chúa Phục Sinh. Những lời này có tác dụng chuẩn bị và khơi dậy đức
tin đã phai lạt nơi Tôma.
Tám ngày sau,cũng trong cộng đoàn đó, Tôma tìm lại được đức tin
của mình. Chính cộng đoàn đã thắp sáng lên niềm tin cho người anh em. Bởi đó,
khi Chúa Phục Sinh với lời mời gọi yêu thương: "Tôma,hãy xỏ ngón tay con
vào lỗ đinh,hãy đặt bàn tay con vào cạnh sườn Thầy.Chớ cứng lòng nhưng hãy
tin", lập tức Tôma được biến đổi từ bóng tối nghi nan sang ngời sáng niềm
tin: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con"(Ga 20,28).
Một trong những khuyết điểm lớn nhất của Tôma là ông đã tự tách
rời khỏi các Tông Đồ khác, rời khỏi đời sống cộng đoàn. Trong sự choáng váng,
thất vọng, chán nản, trong tâm trạng hoài nghi, đau khổ, ông đã tự nhốt mình
trong cô đơn xa lánh anh em,tìm quên lãng trong phiền muộn nên đánh mất cơ hội
gặp Chúa Phục Sinh. Chỉ đến khi tham gia trở lại với cộng đoàn, Tôma mới gặp gỡ
Người và nhờ đó ông đã tìm lại được lòng tin mạnh mẽ, kiên trung.
Hành trình của Tôma đi qua ba giai đoạn: vắng mặt, nghi ngờ và
tuyên xưng đức tin. Một lộ trình dài hơn mọi anh em, nhưng Tôma đã đến gần Chúa
Giêsu hơn mọi anh em khác. Truyền thống Giáo hội kể lại, Tông đồ Tôma đã đưa
Tin Mừng tới tận Ba Tư, Syria và Ấn Độ và chịu tử đạo ở đó.
Đức tin của người tín hữu được trao ban và nhận lãnh nơi cộng đoàn
Phục Sinh, cộng đoàn giáo xứ. Nơi cộng đoàn này, người tín hữu được nuôi dưỡng
và lớn lên trong đức tin, hoặc tìm lại được niềm tin của mình.
Đức tin Kitô giáo vừa có chiều kích cộng đoàn vừa có chiều kích cá
nhân. Đức tin cá nhân được cộng đoàn nuôi dưỡng và làm thành đức tin cộng đoàn.
Cộng đoàn lớn lên và phát triển là nhờ đức tin cá nhân. Cộng đoàn làm cho đức
tin cá nhân phong phú và độc đáo.
Lời Chúa được công bố giữa cộng đoàn Thánh Thể chính là Lời Phục
Sinh. Mỗi tín hữu lắng nghe và chấp nhận cho riêng mình. Mỗi người, nhờ lòng
tin và lòng mến mà Lời Chúa sẽ sinh hoa kết quả trong tâm hồn.
Mình Máu Chúa được trao ban cho mọi tín hữu trong cộng đoàn Thánh
Thể, mỗi cá nhân tín hữu lại đón nhận với mức độ đức tin khác nhau. Người tín
hữu phải đủ đức tin khi rước Thánh Thể của Đấng đã chết và sống lại. Không chỉ
ăn uống Mình Máu Chúa mà còn là gặp gỡ riêng tư với Chúa Phục Sinh như Tôma
vậy.Trong cuộc gặp gỡ riêng tư này, người tín hữu được đón nhận sự sống dồi dào
vào tâm hồn mình.
Đời sống cộng đoàn thật quan trọng cho niềm tin người tín hữu. Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông Huấn "Người Kitô hữu giáo dân"
đã đưa ra bốn hình ảnh về giáo xứ, cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn Thánh Thể.
* Giáo xứ là một gia đình của Thiên Chúa chan hoà tình bác ái
huynh đệ: mọi người được đón tiếp chân thành,được sống trong bầu khí bác
ái,được cảm thấy mình được kính trọng, được yêu thương che chở,ai cũng cảm thấy
mình thuộc về giáo xứ là một vinh dự.
* Giáo xứ là một cộng đoàn nuôi dưỡng đức tin:Mọi người được bồi
dưỡng đức tin,được kêu gọi sống đức tin,được giúp hiểu biết các vấn đề đức tin.
Các Thánh lễ, các giờ giáo lý,các buổi cầu nguyện luôn hướng về Thiên Chúa,
được Lời Chúa và lời Giáo hội soi sáng để người tín hữu hiểu biết những biến cố
cuộc đời.
* Giáo xứ là một cộng đoàn có tổ chức: Mọi người được sắp xếp
trong một hệ thống trật tự,có phân công, có trách nhiệm.Tất cả liên hệ với nhau
trong tinh thần hiệp thông, cộng tác và trách nhiệm để xây dựng giáo xứ tốt
đẹp.
* Giáo xứ là một cộng đoàn truyền giáo: Đây là hình ảnh mà Công
Đồng Vatian II đề cao nhất,hình ảnh cộng đoàn truyền giáo. Mọi người được nuôi
dưỡng đức tin, được sống tình bác ái để ra đi truyền giáo, loan báo Tin Mừng
Phục Sinh, rao truyền niềm vui, niềm hy vọng như cộng đoàn Nhóm Mười Hai đã ra
đi đến với muôn dân.
Cộng đoàn phụng vụ ngày Chúa Nhật là điểm hẹn chính thức và thường
xuyên của Chúa Phục Sinh với các tín hữu.Không nên lỗi hẹn với Chúa trong các
cuộc họp cộng đoàn (x.Dt 10,25).Cần chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với Chúa Phục
Sinh. Người luôn có mặt để giải thích Kinh Thánh đồng thời mở lòng mở trí cho
các tín hữu hiểu Lời Người (x.Lc 24,32.45) và hiến ban chính mình để nuôi sống
người tín hữu chúng ta.
Cám ơn thánh Tôma. Nhờ ngài, các môn đệ khác được chứng kiến tỏ
tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn
Chúa. Nhờ ngài, Chúa Giêsu lại hiện ra một lần nữa. Và nhất là nhờ ngài, chúng
con có được mối phúc thứ chín: "Phúc cho ai không thấy mà tin"(Ga
20,29). Mối phúc này nghe như có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt
đầu bằng cách tin điều mình không thấy và chừng như cũng có lời ước hẹn: tin
điều mình không thấy sẽ thấy điều mình tin.
Mỗi tín hữu vững tin sẽ thấy điều mình tin để nói được rằng:
"Tôi đã thấy Chúa"(Ga 20,18), nhờ đó cả cộng đoàn cũng đều nói lên:
"Chúng tôi đã thấy Chúa"(Ga 20,25).
Thánh Tôma đã nhờ cộng đoàn anh em yêu thương nâng đỡ nên tìm lại
được niềm tin.Nơi Tôma có cái gì đáng yêu đáng ngưỡng mộ, tuy cứng lòng tin
nhưng lại dễ dàng khiêm nhường đón nhận những góp ý chân thành của cộng đoàn.
Chúa Kitô Phục Sinh chính là nền tảng và trung tâm của đời sống
đức tin Kitô giáo. Đấng Phục sinh đã chọn "ngày thứ nhất trong tuần"
làm ngày gặp gỡ các Tông Đồ. Như thế, "Ngày thứ nhất trong tuần" đã
trở thành ngày của cộng đoàn, ngày của gặp gỡ, ngày hát mừng niềm vui Phục
sinh, và nhất là ngày của cuộc "sáng tạo mới".
Xin cho mỗi ngày Chúa nhật trở thành ngày bồi bổ đức tin, bồi
dưỡng tâm linh, bồi đắp tình huynh đệ, giúp mỗi tín hữu sống thánh thiện, hiệp
thông, yêu thương...Nhờ đó, mỗi người trở thành chứng nhân cho sự hiện diện
sống động của Đấng Phục Sinh.
NHẬP LỄ
Nguyên nhân của những mối nghi ngờ chính là vì sự việc vượt quá
tầm nhận thức, hiểu biết của con người -nhất là về phuơng diện đức tin. Do đó
việc Thánh Tôma nghi ngờ như trong trình thuật Tin Mừng, cũng là điều tự
nhiên.Tuy nhiên điều mà Thánh Tôma có lỗi, chính là vì đã không tin vào lời
Chúa. Như Thánh Tôma, chúng ta cũng đã nhiều khi không tin vào lời Chúa như
vậy. Xin Chúa tha lỗi cho chúng con.
- Lạy Chúa, vì niềm tin vào Chúa của chúng con được truyền lại từ
các Tông Đồ. Xin Chúa thương xót …
- Lạy Chúa, vì Chúa là “Đấng Hằng Sống” và “giữ chìa khoá của tử
thần và âm phủ” (Kh1,18). Xin Chúa Kitô …
- Lạy Chúa, vì Chúa đã đến để cứu chuộc và ban bình an cho chúng
con. Xin Chúa thương xót …
GIẢNG
Có thể nói là từ xưa đến nay, Thánh Tôma hầu như đã bị người ta
ghim chết trong định kiến một con người cứng lòng tin. Thế nhưng có mấy ai nghĩ
cho ngài là con người tiên phong trong việc tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và là
Thiên Chúa ? Nếu hiểu được điều đó, chúng ta mới có thể thấy được câu nói của
Chúa Giêsu vừa là lời trách cứ, nhưng cũng là lời khích lệ niềm tin cho ngài
cũng như cho tất cả chúng ta bất kỳ thời đại nào : “Vì đã thấy Thầy, nên anh
tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).
Quả vậy, Thánh Tôma không hẳn là người môn đệ duy nhất cứng
tin. Các môn đệ khác cũng thế. Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô, đã có lần Chúa
Giêsu khiển trách các ông không tin và cứng lòng, “vì đã không chịu tin những
kẻ đã được thấy Người sau khi Người sống lại” (Mc 16,14). Ngay cả khi tiễn Chúa
về trời, Thánh sử Mátthêu vẫn còn ghi lại : “Có mấy ông lại hoài nghi” (28,17).
Thực ra, niềm tin không phải là định kiến bất dịch, nhưng là một sức sống. Sức
sống thì phải được nuôi dưỡng, phải có di chuyển. Nuôi dưỡng thì tất nhiên phải
có thời để cảm nhận đói và thời được no; nghĩa là có tình trạng hao hụt để tiến
tới thời sung mãn. Những lần Chúa hiện đến, đâu có phải ai ai cũng nhanh chóng
nhận ra người đứng trước mặt mình là Chúa -Chúa Giêsu Phục Sinh ! Chỉ sau khi
được nhắc bảo, các môn đệ mới ngạc nhiên hướng nhìn Người ! Cho nên ai cũng có
thể sai lầm, cũng có thể lỡ bước. Điều quan trọng, chính là biết thức tỉnh để
đi đến cùng, đến cùng sự thật.
Thánh Tôma trong trình thuật hôm nay, bước đầu có thể như hơi quá
lời khi thách thức các môn đệ khác : “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người,
nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người,
tôi chẳng có tin” (Ga 20,25b). Tuy nhiên sau đó, khi Chúa ngự đến, Thánh nhân
không chỉ giữ im lặng như những người khác, nhưng đã tuyên xưng niềm tin của
mình : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (c.28). Ngài công bố chấp
nhận Đức Giêsu -người đang đứng trước mặt ngài- là con người đã chết đi nhưng
đã sống lại thực sự, chẳng những là chủ nhân có thể ra lệnh sai khiến chỉ bảo,
mà còn là Thiên Chúa -Đấng tạo sinh nên mình nữa ! Điều mà Giáo Hội tuyên xưng
Chúa Giêsu trong kinh Tin Kính từ thời các Tông Đồ cho đến ngày nay, đâu có gì
vượt quá điều Thánh Tôma đã tuyên xưng trước mặt Chúa ngày hôm nay : “Lạy Chúa
của con; lạy Thiên Chúa của con !” Thánh nhân không chỉ tuyên xưng Chúa đã sống
lại, nhưng còn tin nhận Chúa là Đấng Cứu Thế phải đến thế gian và là Thiên
Chúa. Như thế, đức tin còn phải vượt qua điều thấy trước mắt để thấy được điều
cần phải thấy, phải tin. Đã chắc gì các vị môn đệ khác thấy con người Chúa phục
sinh hôm đo, mà tin nhận ngay hay thấy ngay được Chúa là Thiên Chúa tối cao
đáng kính, đáng tôn thờ ? Ngôi Lời Thiên Chúa khi trở nên xác phàm, là muốn để
cho nhân loại thấy Chúa Giêsu có thân xác. Nhưng để được đi vào mầu nhiệm cứu rỗi
và để sống trong Tình Yêu của Thiên Chúa, con người phải thấy được Chúa Giêsu
tỏ hiện trong vinh quang Thiên Chúa tính của Người. Mối hạnh phúc mà Chúa Giêsu
chúc mừng cho Thánh Tôma, chính là điều Thánh nhân đã “thấy” -thấy vượt qua cái
thấy trước mắt- và đã nhanh chóng tuyên xưng lòng xác tín của mình vào điều đã
thấy ngoài điều nhìn bắng ánh mắt đó. Nhờ xác tín như thế mà Thánh nhân đã
không ngần ngại mang Tin Mừng của Chúa sang rao giảng tận Batư, Xyri; và tại
Ấnđộ, ngài đã sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Chúa.
Chúng ta cũng đã không thấy Chúa nhãn tiền như các Tông Đồ hay như
Thánh Tôma xưa. Nhưng liệu đó có phải là đầu mối đem lại hạnh phúc cho chúng
ta, vì chúng ta đã cố gắng khám phá và tuyên xưng Chúa đang sống trong cuộc đời
mình chăng ? Lời Chúa khích lệ Thánh Tôma ngày xưa vẫn còn mãi mãi giữ giá trị
cho chúng ta ngày hôm nay : “Phúc thay những người không thấy mà tin !” (Ga
20,29).
Lạy Chúa, dù cuộc đời con có tăm tối, hay trống rỗng; dù đời con
có thất bại nặng nề, muộn phiền hay lo âu, xin cho con luôn vững tin nơi Chúa,
để nhìn thấy Chúa đang hiện diện bên cạnh và nâng đỡ con. Amen.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa
nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh
hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có
những cảm nghiệm sau đây:
1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo
đường.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người
có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Ngươì xuất hiện trong vườn,
gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới.
Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất
hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất
hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo.
Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được
bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc
sống.
Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người
xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với
các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay
giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc
đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc
sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những
người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường
đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng
hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các
môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối
của Tôma.
2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình
an, tin tưởng.
Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của
Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các
con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ
còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần Linh Chúa bay là là trên mặt
nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.
Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như
một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo
dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người
mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh,
Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn
khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ
sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững
niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.
3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức
Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ
tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống
nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ
còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh
hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.
Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh,
những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những
trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì
cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.
4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo
Tin Mừng Phục sinh.
Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức
Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên
các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về
loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ
Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ
dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau
khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai
Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những
sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà
làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể
không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống
cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng
Tin Mừng”.
Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn
ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc
mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến
lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường
học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người
ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt mài
đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng
thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không
lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón
chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất
nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc
đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin
hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong tạp chí Guidepots, bác sĩ Scott Harrison, một chuyên viên
phẫu thuật bàn tay có viết rằng: lần nào giải phẫu ông cũng đều kêu lên vào một
lúc nào đó: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”. Ông có thói quen lạ lùng nầy từ
hồi ông còn ở Việt Nam. Một đêm nọ, vừa mới rời trường Y, ông được kêu đi gắp
một viên đạn bị kẹt trong tay một người lính. Đã vậy, ông còn phải giải phẫu
dưới ánh sáng của ngọn đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy khiến ông cảm xúc sâu xa đến
nỗi sau khi cuộc chiến kết thúc, ông đã quyết định đi chuyên ngành giải phẫu bàn
tay. Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc
cơn đau khủng khiếp do một vật gây ra, chẳng hạn như một viên đạn, khi vật ấy
xuyên thủng lớp xương, lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay con
người. Nhà phẫu thuật ấy kể rằng ông thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến
cơn đau kinh khiếp Chúa Giêsu phải chịu khi đôi tay Ngài bị đóng đinh vào thập
giá.
Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, ông nói rằng theo ông, tiếng kêu
“lạy Chúa là Thiên Chúa của con” của Thánh Tôma không chỉ là một lời tuyên xưng
đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy rung động khi vị tông đồ nhìn thấy dấu vết của
đôi bàn tay bị xé toạc ra của Chúa Giêsu. Chỉ đến lúc đó, Tôma mới hoàn toàn
nhận thức được cơn đau đớn Chúa Giêsu đã phải chịu trên thập giá. Theo nhận
định của nhà phẫu thuật, khám phá nầy hầu như vượt quá mức chịu đựng của Tôma.
Và ông đã kết thúc bản văn đầy cảm động đó với lời chứng sau đây: “Mỗi lần giải
phẫu mà nhìn phía dưới làn da của bàn tay con người, tôi luôn nhớ tới Chúa Kitô
đã hy sinh đôi tay toàn hảo của Ngài cho tôi, và cũng như Tôma, tôi thốt lên:
“Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.
Thưa anh chị em,
Câu chuyện trên làm nổi bật một điểm thuộc về đức tin mà chúng ta
rất thường hay quên. Đó là mỗi người chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp với Chúa
Giêsu qua đức tin. Không phải vì cha mẹ, họ hàng, bạn hữu chúng ta tin nên
chúng ta tin theo. Đức tin của họ giúp ích cho chúng ta rất nhiều, nhưng chỉ
như thế mà thôi thì chưa đù. Chúng ta phải tực tiếp xúc trực tiếp bằng đức tin
với Chúa Giêsu giống như nhà phẫu thuật trong câu chuyện hoặc giống như Thánh
Tôma trong Tin Mừng hôm nay. Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại
tí là như các anh em khác. Các tông đồ kia lúc đầu cũng chẳng ai tin Chúa đã
sống lại. Các ông chỉ tin sau khi được tiếp cận với Chúa Giêsu, được sờ đến
thân xác Ngài, được ăn uống với Ngài. Vì thế, Tôma thấy mình thiệt thòi và thua
kém. Cho nên ông cương quyết không chịu tin lời anh em kể lại và ông đòi phải
được sờ vào những dấu đinh ở tay Ngài.
Ông Robert Cleath, một tác giả viết sách đã trở lại với đức tin
khi ông suy niệm về sự biến đổi kỳ diệu đã đến với các môn đệ Chúa Giêsu vào
dịp lễ Phục Sinh. Trước biến cố nầy, họ là đám người thất vọng thảm bại, thế mà
sau biến cố nầy, họ đã được biến đỏi kỳ diệu và còn có năng lực làm phép lạ
nữa. Ông nói: “Không có cách giải thích nào hữu lý về sự biến đổi của
họ hơn là sự giải thích của chính họ: đó là vì họ đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện
đang sống”.
Blaise Pascal, nhà thiên tài toán học, được hấp dẫn đến với đức
tin khi ông suy niệm về sự kiện không có sự đe dọa giết chóc nào có thể ngăn
cản các môn đệ Chúa Giêsu nói thật to cho thế giới biết rằng Chúa đã sống lại.
Pascal nói ông tin chắc chắn vào kẻ nào dám sẵn sàng chịu “chém đầu” vì lời rao
giảng của mình.
Trong cuốn sách mang tựa đề “Ngang qua thung lũng sông
Kwai”, Ernest Gordon đã kể lại câu chuyện đám tù binh hai ngàn tù binh
đã bị chết vì bệnh tật và vì bị đối xử tàn tệ. Thế nhưng, họ được lôi cuốn đến
với đức tin qua cảm nghiệm riêng tư về quyền năng Chúa Giêsu đang hoạt động
trong cuộc sống của họ. Chúng ta hãy nhớ lại đám tù binh nầy từng lao động đầu
trần chân đất dưới cơn nóng cháy da miền nhiệt đới. Trong chỉ vài tuần lễ, từ
những người đàn ông lực lưỡng, họ đã biến thành những bộ xương biết đi. Tinh
thần họ bị xuống đến mức tệ nhất. Người ta lo sợ sắp có điều gì xảy ra. Thế
nhưng vào ngay thời điểm ấy, hai tù nhân đã đứng lên tổ chức đám tù còn lại
thành những nhóm tìm hiểu Kinh Thánh. Nhờ suy tư tìm hiểu Kinh Thánh, các tù
nhân đã học biết rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở giữa họ. Họ chỉ việc tiếp xúc
với Ngài. Và sau khi tiếp xúc với Ngài, đám tù đã được biến đổi kỳ diệu trong
cuộc sống từng người. Chính cảm nghiệm thiêng liêng nầy khiến họ quỳ gối xuống
thưa Chúa Giêsu “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta cũng phải biểu lộ niềm tin trực tiếp vào Chúa Giêsu như
thế. Chúng ta cũng phải tìm được lý do riêng tư thôi thúc chúng ta quỳ gối
xuống thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”. Dĩ nhiên chúng ta
không thể leo lên cỗ máy thời gian bay ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm
để dự lễ Phục Sinh đầu tiên. Chúng ta cũng không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh
nơi tay Chúa Giêsu giống như Thánh Tôma. Vậy thì chúng ta có thể làm gì?
Chúng ta có thể làm như đám tù nhân ở bờ sông Kwai. Chúng ta có
thể tin vào Tin Mừng, có thể tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin, có thể tự
cảm nghiệm được Chúa Giêsu Phục sinh đang ngự giữa chúng ta: Ngài sẵn sàng giúp
đỡ chúng ta như Ngài từng giúp đỡ đám tù binh nọ. Đây là lời mời gọi mà Tin
Mừng hôm nay dành cho chúng ta. Đây là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta
như Ngài nói với Thánh Tôma: “Tôma, vì con đã thấy nên con mới tin, nhưng phúc
cho kẻ nào không thấy mà tin”.
Thưa anh chị em,
Khi Chúa Giêsu nói với Thánh Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin”
là Ngài đang ngỏ lời với chính chúng ta cũng như với triệu triệu Kitô hữu trong
suốt dòng lịch sử. Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Tin Mừng. Phúc cho
chúng ta nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin. Thật vậy, phúc cho
chúng ta, vì cũng như các tù binh nọ, chúng ta sẽ khám phá được Chúa Giêsu đã
sống lại và hiện đang sống ngay lúc nầy đây giữa chúng ta và luôn sẵn sàng giúp
đỡ chúng ta.
Cuối cùng, đức tin còn phải được nuôi dưỡng bằng những dấu hiệu,
dấu chỉ. Không có các bí tích, không có Thánh Thể, chúng ta sẽ tìm đâu ra cơ
hội để gặp thấy sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh? Một khi đức tin của chúng
ta đã được các dấu hiệu, các bí tích nầy thức tỉnh rồi, thì mọi sự sẽ có thể
trở thành dấu hiệu về sự hiện diện của Chúa Kitô: các biến cố, các hoàn cảnh,
tha nhân… Mỗi giây phút đưa chúng ta đến với một cuộc gặp gỡ và chúng ta lại có
thể tuyên xưng như Thánh Tôma tông đồ: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của
con”.
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Bài giảng 2: Học hỏi từ Tôma
Thật dễ sai lầm khi cho rằng những ai đã nhìn thấy Đức Giêsu, thì
dễ có lòng tin hơn so với chúng ta. Tin Mừng chứng tỏ rằng có nhiều người đã
được nhìn thấy Đức Giêsu, nhưng vẫn không có lòng tin nơi Người. Nhìn thấy
không nhất thiết là tin. Động tác tin tưởng lôi kéo theo một quyết định tin
tưởng.
Trên thực tế, Tin Mừng còn cho thấy rằng ngay cả các Tông đồ mà
còn có vấn đề về lòng tin. Tôma không phải là người Tông đồ duy nhất nghi ngờ về
sự sống lại. Tất cả các Tông đồ đều như vậy cả. Thánh Maccô kể cho chúng ta
nghe rằng khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối Phục sinh, “Người
khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những
kẻ đã được thấy Người, sau khi Người chỗi dậy”. (Mc 16: 14).
Chúng ta có thể thông cảm cho các Tông đồ. Cảnh Đức Giêsu bị đóng
đinh đã làm cho họ bị tuyệt vọng. Họ đã dành cho Đức Giêsu một tầm quan trọng
lớn lao. Họ đã bỏ hết công việc của mình, và để lại mọi sự để đi theo Người. Thế
mà Người lại đột ngột ra đi. Càng nghe nói thật về cái chết của Người, thì sự
mất mát của họ càng trở nên lớn lao hơn. Giá trị và ý nghĩa của tất cả mọi sự
đều bị đe doạ: tình bạn đồng hành, lòng tin và toàn bộ cuộc sống của họ.
Và rồi một điều không thể tin nổi đã xảy ra – một lần nữa, Người
lại đứng giữa họ. Việc đầu tiên mà Người làm, là chỉ cho các ông nhìn thấy
những vết thương của Người. Tại sao Người lại làm như vậy? Trước hết, bởi và
những vết thương này giúp cho các ông nhận ra Người chính là Đấng đã bị đóng
đinh. Thứ hai, những vết thương này là bằng chứng tình yêu của Người đối với
họ. Tình yêu phải được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể. Sau đó, Người còn
mời gọi các ông “nhìn xem và sờ tay vào”.
Trường hợp của Tôma đặc biệt soi sáng chúng ta. Ông đã chứng tỏ
một sự chân thành thật thú vị. Ông không hề cố gắng che đậy những nghi ngờ của
mình. Người ta thường nhìn sự hoài nghi như là một dấu hiệu của sự yếu đuối.
Chúng ta thường hay mang mặc cảm tội lỗi, vì đã có những hoài nghi. Nhưng hoài
nghi có thể là một điểm nói lên sự đang phát triển, là một hòn đá bước lên để
đi vào sự hiểu biết sâu xa hơn. Đây là điều chắc chắn đối với Tôma, bởi vì
trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, ông đã tiến tới việc diễn tả lời tuyên xưng
cao cả nhất về lòng tin nơi Đức Giêsu: “Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con”.
Ở nơi đây, trên trái đất này, người ta không thể tuyệt đối biết
chắc chắn về những điều thiêng liêng. Nếu biết chắc chắn, thì không còn cần đến
lòng tin nữa. Sự tuyệt đối chắc chắn có thể đưa đến thói kiêu ngạo, không khoan
dung và sự ngu xuẩn. “Kẻ tin nào không bao giờ tỏ ra hoài nghi, thì không
phải là kẻ tin nữa” (Thomas Merton).
Một cộng đoàn đều có thể rút được kinh nghiệm từ một nhân vật như
Tôma, nghĩa là một người có can đảm đặt ra những câu hỏi mà không một người nào
khác dám hỏi. Đó là người chân thành, người như vậy cũng giúp cho những người
khác giữ được chân thành. Họ làm cho những kẻ tin tức giận, khi bày tỏ sự mỏng
dòn nơi lòng tin của họ; họ làm cho những kẻ hoài nghi tức giận, khi làm cho
những người này cảm thấy sự dằn vặt của nỗi trống rỗng trong tâm hồn.
Sau khi chế ngự được khủng hoảng lòng tin của mình, Thánh Tôma đã
tiếp tục can đảm làm chứng cho Đức Giêsu, và trở thành một trong những nhà
truyền giáo vĩ đại nhất của Giáo Hội tiên khởi. Theo truyền thống, ngài đưa Tin
Mừng tới tận Ba Tư, Syria và Ấn Độ, là nơi ngài chịu tử đạo. Thánh Tôma là
người Tông đồ đầu tiên chịu chết vì đức tin.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta tiếp cận với Người trong lòng tin, và
nhìn vào những vết thương của Người. Mặc dù chúng ta không được đụng chạm vào
Người về mặt thể lý, nhưng chúng ta vẫn có thể tiến lại gần Người về mặt thiêng
liêng. Và chúng ta cũng được kêu gọi mang lời chứng đến cho những người khác.
Công việc của Chúng ta là làm cho Đức Giêsu trở thành “nhìn thấy được”
trên thế giới. Các môn đệ đầu tiên đã làm theo cách này. Một khi đã được nhìn
thấy Đức Kitô, họ cảm thấy bắt buộc phải làm cho người khác nhận biết người.
Thế giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài nghi và không tin tưởng.
Cách thức duy nhất khiến cho họ được biến đổi trong lòng tin, đó là làm như thể
họ “nhìn thấy” Đức Giêsu và “đụng chạm” vào Người thông qua những
kẻ đi theo Người. Nhưng kẻ đi theo Người lại không hề có vết thương tình yêu để
bày tỏ ra cho họ, vì thế, chưa chắc có thể thuyết phục được những kẻ không tin.
Xin cho chúng ta xứng đáng được kể và số những người mà Đức Giêsu
chúc phúc, nghĩa là “những kẻ không thấy mà tin”
Bài giảng 3: trào lưu chính thống
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón
tay vào lỗ đinh, và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
Tôma đang tìm kiếm sự tuyệt đối chắc chắn. Chúng ta có thể gọi ông là một người
theo trào lưu chính thống. Đối với người theo trào lưu chính thống, vấn đề chỉ
là trắng hoặc đen. Nếu có một điều gì đó chưa đích thực theo sát nguyên văn,
thì đúng là điều đó không hề có thật.
Ngày nay,
trào lưu chính thống đang trên đà gia tăng. Vì sự thiếu chắc chắn gây ra nỗi
e ngại,
nên họ có rút lại vào trào lưu chính thống. Trào lưu này có thể rất hấp dẫn.
Đối với người theo trào lưu chính thống, đường lối phải thẳng tắp, câu trả lời
phải đơn giản. Nhưng trào lưu chính thống là một cách thức nghèo nàn trong việc
nhìn nhận chân lý. Điều này tước đoạt mất sự phong phú của lòng tin, hậu quả là
đưa đến một thứ tôn giáo cứng rắn, đơn giản, thuần theo luân lý và độc đoán.
Điều này làm cho người ta biến thành một đám người chỉ đi theo đúng một đường
lối, hơn là một nhóm người bao gồm những cá nhân, mỗi người đều có câu chuyện
riêng của mình để kể ra, và một đường lối đặc biệt riêng để đi theo.
Sau đây là một câu chuyện ngụ ngôn: có hai người đi đường tự nhận
thấy mình đang giáp mặt với một cánh rừng. Bởi vì chung quanh đó không còn một
con đường nào, nên họ không còn chọn lựa nào khác, ngoài cách phải băng qua
cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm thấy khiếp sợ, họ e ngại rằng mình có thể bị lạc
lối trong rừng. Nhưng họ thật may mắn khi gặp được một người gác rừng, người
này đã cho họ một bản đồ vạch ra những con đường mòn đi xuyên qua rừng.
Sau khi xem xét tấm bản đồ, thì người thứ nhất phát hiện được một
con đường mòn dường như có vẻ đi thẳng trực tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết
đi theo con đường mòn đó. Khi làm như vậy, anh đã tìm kiếm được nhiều thì giờ,
lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta cũng tự làm cho mình mất đi cơ hội khám phá
được vẻ phong phú cả khu rừng.
Người thứ hai nghiên cứu từng chi tiết của tấm bản đồ một cách cẩn
thận. Anh đã ghi nhận rằng những con đường mòn chính không chỉ xuyên suốt được
khu rừng, mà còn là những lối đi ngắn hơn nhiều. Đối với anh, không nhất thiết
là phải tuyệt đối theo sát tấm bản đồ, nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này
là nhằm cung cấp cho anh những phương hướng, đế mặc dù đang ở bất cứ chỗ nào
trong rừng, anh cũng sẽ không bị lạc lối. Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là
mở ra cho anh toàn thể khu rừng, và giúp cho anh phát hiện được tất cả vẻ phong
phú sẵn có của nó.
Khu rừng tiêu biểu cho thế giới của chân lý. Tấm bản đồ tiêu biểu
cho đức tin của người Kitô hữu. Những con đường mòn tiêu biểu cho các học
thuyết về đức tin.
Người thứ nhất tiêu biểu cho loại người theo trào lưu chính thống.
Anh ta suy nghĩ về các học thuyết đức tin theo một cách thế hẹp hòi, theo sát
từng chữ và dường như không liên quan gì đến những gì còn lại của cuộc sống.
Người thứ hai đã sử dụng cũng những chân lý đó để cung cấp cho anh những phương
hướng. Bằng cách này, những chân lý đó mở ra tất cả cho anh. Chúng giúp anh có
thể tự đắm mình vào cuộc sống, với tất cả những nét phong phú đa dạng và tuyệt
vời của nó. Chúng đem đến cho anh một chiếc chìa khoá, để giải mã mầu nhiệm của
cuộc sống.
Đức tin của người theo trào lưu chính thống tạo ra một đường lối
an toàn. Đức tin này bảo về người đó khỏi phải làm một công việc khó nhọc, đó
là đi tìm kiếm ý nghĩa và những giá trị của bản thân mình. Nó giảm bớt cho
người đó khỏi nỗi lo lắng phải đương đầu với sự chọn lựa, với trách nhiệm, và
sự thay đổi liên tục trong ý thức về bản thân mình. Trào lưu chính thống là một
đức tin đã được xác nhận bằng sự thiếu tự tin.
Đối với một người theo trào lưu chính thống, tôn giáo chỉ là một
phần của cuộc sống. Còn đối với người không đi theo trào lưu chính thống, tôn
giáo chính là cuộc sống được nhìn và sống theo viễn cảnh tôn giáo. Mỗi sự kiện
đều được tiếp nhận gấp đôi, nếu không muốn nói là gấp ba lần ý nghĩa, và do đó,
từng sự kiện lại được phong phú hơn và bí nhiệm hơn. Đức tin lấp đầy cuộc sống
của chúng ta bằng những sự kiện mà, nếu không có chúng, thì cuộc sống của chúng
ta sẽ không có ý nghĩa, và linh hồn của chúng ta sẽ bị khô héo và chết đi.
Đức Giêsu không cổ vũ cho trào lưu chính thống. Người không muốn
những kẻ đi theo Người cách mù quáng. Trái lại, Người đã cố gắng mở mắt mọi
người, mà không hề đe doạ hoặc ép buộc ai cả, Người chỉ mời gọi, mong muốn
người ta tự nguyện đi theo Người, bằng tất cả sự sáng suốt của họ. Và Người còn
đi đến chỗ mong muốn chúng ta có thể có được sự sống, không chỉ ở cuộc
sống mai sau, mà còn ở nơi đây, trên trái đất này nữa, để có được một cuộc sống
dồi dào.
Tiếp Cận Khác: Khủng hoảng đức tin
Tông đồ Tôma đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin. Nhiều người
cũng đang khủng hoảng đức tin. Tolstoy là một con người mẫu mực, ngoại trừ cuộc
sống của ông cũng đang bị một cơn khủng hoảng về mặt ý nghĩa.
Năm 1879, ông được 51 tuổi. Ông có lý do để mãn nguyện với chính
mình. Ông đã hoàn thành hai cuốn tiểu thuyết, Chiến tranh và Hoà bình
và Anna Karenina. Nếu ông không viết một tác phẩm nào khác nữa, thì
hai cuốn tiểu thuyết này đủ đảm bảo cho ông có một vị trí xứng đáng trong cuốn
sử biên niên của nền văn học thế giới. Văn phong của hai cuốn sách này đã giúp
cho ông có thể diễn tả được tính cách vĩ đại và khả năng sáng tạo của ông. Đáng
lẽ ông rất hạnh phúc. Tuy nhiên, ông lại cảm thấy đau khổ. Ông cảm thấy cuộc
sống của mình không có ý nghĩa. Có một câu hỏi cứ lảng vảng trong ông: “Liệu
có bất cứ ý nghĩa nào trong cuộc sống của tôi sẽ không bị cái chết huỷ hoại đi
chăng?”.
Đối với ông, đây là một thời kỳ nguy hiểm và đau đớn –ông đã từng
dự tính tự tử. Ông tìm kiếm một lời giải đáp cho những câu hỏi của ông trong
từng lãnh vực của kiến thức nhân loại. Ông cứ kiên nhẫn tìm kiếm, cả ngày lẫn
đêm, giống như một người đang giãy chết tìm cách để được cứu thoát. Nhưng ông
vẫn không hề tìm thấy gì cả.
Thế rồi ông quay trở lại với niềm tin của các Kitô hữu. Ông đã
từng được nuôi dưỡng trong lòng tin, nhưng ông đã từ bỏ đức tin đó từ lâu rồi.
Ông cảm thấy khó chịu đối với niềm tin này, và coi đó như là thứ vô nghĩa lý
trên môi miệng của những kẻ có cuộc sống trái ngược hẳn với cuộc sống của ông.
Nhưng khi nhìn vào những con người sống bằng niềm tin, thì cũng chính niềm tin
này lại lôi cuốn ông và dường như gây cho ông sự xúc động.
Từ đó, ông được lôi kéo quay trở lại với niềm tin này và ông đã
nhận ra được ý nghĩa của niềm tin. Ông nói:
“Tôi đã từng suy nghĩ rằng trong cuộc sống, không hề có chân lý
chắc chắn. Nhưng rồi tội đã tìm thấy một nguồn ánh sáng đó từ trong Tin Mừng,
và nét rạng ngời của ánh sáng đó đã làm ngây ngất cõi lòng tôi. Trong những lời
giảng dạy của Đức Giêsu, tôi nhận ra rằng đó là một học thuyết tinh tuyền nhất
và đầy đủ nhất trong cuộc đời. Từ 2000 năm nay, lời rao giảng cao cả và quý giá
của Đức Giêsu đã tạo ra một ảnh hưởng trên con người, theo cách thức mà không
có bất cứ người nào khác có thể tạo ra được. Một ánh sáng đã chiếu toả trên con
người tôi và chung quanh tôi, và kể từ đó, ánh sáng này không bỏ rơi tôi nữa”.
Một số người đã được đưa ra vào lòng tin tôn giáo ngay từ lúc mới
sinh, và theo năm tháng, họ nhận thấy lòng tin này càng ngày càng mạnh mẽ và vẫn
được duy trì. Khi có được lòng tin như vậy, thì đó là một ơn phúc lớn lao.
Nhưng đối với những người khác, lòng tin là một cuộc đấu tranh liên lỉ. Thật
vậy, có thể một số người đã phải trải qua một cơn khủng hoảng, rồi mới đến được
một lòng tin sâu xa và mang tính cách cá nhân.
Chỉ có lòng tin mới có thể trả lời cho những câu hỏi sâu xa nhất
và quan trọng nhất trong cuộc đời. Nhưng chúng ta không được mong đợi lòng tin
soi sáng tất cả mọi sự, bởi vì chúng ta có lòng tin, điều đó không có nghĩa là
chúng ta biết được tất cả mọi câu trả lời. Nhưng chúng ta không nhất thiết biết
tất cả những câu trả lời. Lòng tin là sự tin tưởng, chứ không phải là biết chắc
chắn.
Câu chuyện của Tôma đa nghi giúp chúng ta hiểu rằng ân sủng lòng
tin được chứa đựng trong bình chứa là con người nhân loại thật mỏng dòn biết
bao. Và điều này cũng chỉ ra cho chúng ta rằng lòng tin Kitô giáo nhất thiết
phải là lòng tin đối với một Đấng đã yêu thương chúng ta –và Người đã có những
vết thương để chứng tỏ tình yêu này. Tất cả cốt lõi của lòng tin trong Kinh
Thánh không chỉ là lòng tin mà chúng ta có được nơi Thiên Chúa, nhưng còn là
lòng tin mà Thiên Chúa có nơi chúng ta.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Walter Ciszek, một linh mục dòng Tên người Ba Lan, đã trải qua 15
năm sống trong các trại cưỡng bức lao động tại Siberia. Trong suốt những năm
tháng đó, ông thuộc về những lữ đoàn thấp kém nhất, đã ép buộc ông phải làm
những công việc bẩn thỉu nhất – đào nền bằng tay, khiêng vác những vật liệu xây
dựng nặng nề, bò qua những khu hầm mỏ tối tăm, ẩm thấp, tại đó, chỉ cần sơ ý
một chút là đủ đưa đến cái chết.
Điều gì đã giúp cho ông tồn tại được? Ông nói “Nhiều người đã
chết, đặc biệt khi mất đi niềm hy vọng. Nhưng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa, và
nhờ đó, không bao giờ tôi cảm thấy mất niềm hy vọng. Không phải là tôi duy trì
được lòng tin, nhưng chính lòng tin đã giúp tôi tồn tại”.
Hạnh phúc cho những ai có được một lòng tin như thế.
Ngày Chúa nhật là “ngày của Thiên Chúa”, là một lễ Phục Sinh.
Viết đoạn Phúc Âm này sau 60 năm sự kiện xảy ra, Thánh Gioan Tông
đồ cảm thấy như còn thật mới mẻ sống động, một biến cố mà mình là nhân chứng.
Câu chuyện muốn nói lên rằng Chúa Giêsu sống lại chính là Đấng
trước đây, nhưng cũng khác trước đây. Gioan đã nhìn thấy Ngài bị đâm thấu cạnh
sườn trên Thập giá (19,34) thì hôm nay, Ngài tỏ cho thấy vết thương nơi tay và
cạnh sườn. Chính là Ngài, nhưng Ngài đã đi vào một cõi sống mới, không lệ thuộc
không gian và thời gian. Ngài đem đến sự bình an và vui mừng. Chúa đã sống lại.
Chúa đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc bằng sự chết và sự sống lại
của Ngài. Hôm nay, Ngài đến để trao cho các ông sứ mạng phổ cập ơn cứu rỗi đó.
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con”. Sứ mạng biệt sai phát xuất từ
Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài thổi hơi và phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Một trong mục đích của cuộc biệt sai là ban ơn tha thứ: “Các con tha tội ai thì
tội kẻ ấy được tha; các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
Ơn tha tội được bảo đảm bằng sự chết và sống lại của Chúa Giêsu,
qua Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu, nhưng cũng qua trung gian của Giáo hội: tha
cho ai, cầm buộc ai, kẻ ấy được tha hay bị cầm buộc. Thật là một quyền năng lớn
lao và vĩ đại.
Sự kiện xảy ra chiều Phục Sinh.
Nhưng hôm ấy, trong nhóm môn đệ, thiếu mặt Tôma, một người không
phải là dễ bảo.
Người ta thường dùng giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt
thấy, tai nghe, tay sờ đụng. Người ta dùng lý trí để lý luận, kiểm chứng. Nhưng
người ta cũng có thể dựa trên niềm tin để tăng phần kiến thức.
Khi nghe các bạn cho biết họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống
lại, Tôma không tin. Là người thực tế ông muốn được kiểm chứng bằng giác quan,
mắt thấy tai nghe, tay sờ đụng, ông mới tin.
Tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, có Tôma ở với
các ông. Chúa Giêsu cho Tôma và qua Tôma cho chúng ta, một bài học về Đức Tin.
TIN không phải là nhìn thấy, sờ đụng, mà là dựa trên chứng từ những kẻ đã
“thấy” và “chiêm gưỡng” vinh quang của Chúa. Niềm tin vào mầu nhiệm sống lại
của chúng ta dựa trên chứng tích của các Tông đồ và của Giáo hội. Trong bài
giảng đầu tiên, Phêrô tuyên bố: “Đức Giêsu, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng
tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy” (Cv 2, 32).
Đó là căn bản nhưng cũng là phần thưởng của Đức Tin: “Phúc cho
những ai đã không thấy mà tin”, và nhờ đó chúng ta được sống nhờ danh Ngài.
Hồi ấy, dân chúng đồn thổi và kéo nhau đi xem một phép lạ Phép
Thánh Thể. Có người mời Vua Thánh Louis (1214-1270) cùng đi xem. Thánh nhân từ
chối vì “không muốn mất phần thưởng về Đức Tin”.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta ơn Đức Tin và hãy gìn
giữ, bám víu lấy Đức Tin, ngọn đuốc soi sáng ta trên cuộc đời đen tối.
Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con.
Cách đây khoảng 104 năm, vào Chúa nhật thứ nhất sau lễ Phục sinh,
tức Chúa nhật Quasimodo, chiếc tàu Titanic đã chìm xuống lòng biển Đại tây
dương mang theo trên một ngàn sinh mạng. Rất nhiều chi tiết liên quan đến con
tàu định mệnh đã được báo chí đăng tải, nhưng có một chi tiết rất đáng chú ý:
ngay phần hông tàu phía dưới mặt nước là dòng chữ “No God, no Pope” (Không
Thiên Chúa, không Giáo hoàng).
Dường như khi khoa học kỹ thuật càng phát triển con người càng
đánh mất niềm tin vào Thượng đế. Lắm kẻ dám nói: không có Thiên Chúa, vì họ có
thấy đâu. Họ chỉ tin khi nào khoa học chứng minh điều đó. Nói cách khác, họ
muốn tiếp cận với Thiên Chúa qua phương pháp khoa học thực nghiệm, nghĩa là
bằng thấy, sờ, lý luận, phân tích, và xác minh.
Những đòi hỏi như thế đâu phải chỉ mới xuất hiện sau những tiến bộ
vượt bậc của khoa học hôm nay. Đúng ra nó đã xuất hiện cách đây hai ngàn năm
rồi. Khi mà người ta đòi phải thấy được Chúa nhãn tiền, sờ được Ngài, thọc tay
vào lỗ đinh, xác quyết tường tận Đấng đã chết trên thập giá mà nay sống lại. Đó
không phải là một niềm tin đòi được xét nghiệm bằng khoa học à?
Nhưng đức tin đâu có nằm trong phạm trù khoa học. Khoa học chỉ
nghiên cứu các dữ kiện, định luật và nguyên nhân thuộc phạm vi vật chất. Ngoài
đó nó không có chỗ đứng. Nói như thế không có nghĩa là khoa học chẳng dính dáng
gì đến niềm tin và niềm tin không cần đến khoa học. Trái lại nếu thành tâm sử
dụng thì khoa học vẫn là một phương thế rất tốt giúp con người khám phá sâu
rộng sự hiện hữu của Thiên Chúa. Còn càng tự mãn trong khoa học người ta sẽ
càng rời xa chân lý tuyệt đối.
Chuyện kể về một bác học người Pháp muốn làm một cuộc nghiên cứu
trong sa mạc. Ông chọn mấy người Ả rập làm hướng dẫn viên. Một buổi chiều, khi
mặt trời sắp lặn, một người trong nhóm dẫn đường trải tấm thảm xuống cát và
ngồi lên đó trong dáng điệu trầm tư. Thấy thế nhà bác học buộc miệng hỏi:
- “Ngươi làm gì thế?”
- “Dạ, tôi cầu nguyện,” người kia trả lời.
- “Cầu nguyện à, thời buổi này mà còn cầu nguyện à, vậy ra ngươi
còn tin có Thiên Chúa? Mà ngươi đã thấy Chúa chưa,” Nhà bác học như muốn bắt
bẻ.
- “Dạ chưa.”
- “Vậy ngươi nghe Chúa nói chưa?”
- “Dạ chưa.”
- “Vậy ngươi đã sờ chạm được Chúa chưa?”
- “Dạ chưa,” người hướng dẫn khiêm tốn trả lời.
- “Nếu thế thì ngươi là một tên điên khi tin vào một Thiên Chúa mà
chưa bao giờ thấy, không bao giờ nghe, và cũng chẳng bao giờ đụng đến.”
Thế rồi mọi người đi ngủ. Sáng hôm sau, trước lúc hừng đông, nhà
thông thái vừa bước ra khỏi lều đã vội kêu lên:
- “Ồ, tối hôm qua có một con lạc đà đi qua nơi này!”
Người hướng dẫn viên trợn mắt kinh ngạc:
- “Vậy chứ Ngài thấy con lạc đà đó đi qua đây à?”
- “Không,” nhà thông thái tự đắc trả lời.
- “Vậy chứ Ngài đụng phải nó à?”
- “Không.”
- “Vậy chứ ngài nghe nó kêu à?”
- “Không.”
Người hướng dẫn reo lên:
- “Thế thì ngài là kẻ điên khi tin có một con lạc đà mà ngài không
thấy, không nghe, và không đụng đến.”
Nhà thông thái đáp lại:
- “Nhưng ta biết được qua những dấu chân còn trên cát của nó kia
kìa.”
Ngay lúc đó mặt trời mọc lên, toả muôn tia sáng rực rỡ lung linh.
Người hướng dẫn viên liền chỉ tay về phía mặt trời và nói: “Thế thì tôi cũng
nhìn vào cái dấu vết kia để thấy rằng có một Thiên Chúa đang đi qua cuộc đời.”
Không ít người đã dùng những khám phá của khoa học để tuyên bố
không có Thiên Chúa, chỉ có con người là chúa vũ trụ, và niềm tin thượng đế
đang bị khoa học bóp chết. Thế nhưng, cùng lúc đó lại có rất nhiều người, qua
khoa học, nhìn thấy thế giới này sao có nhiều điều bí ẩn, kỳ lạ, siêu vời mà
tài sức con người chỉ mới vén mở được một phần rất bé. Từ đó họ càng nhận rõ
dung mạo của một Đấng siêu vượt trên vũ trụ, khoa học, và tất cả-Đấng mà người
Kitô hữu tin là nguyên lý siêu đẳng đã tạo nên trời đất bao la.
Thế nhưng cũng không ít người đặt vấn đề: nếu Thiên Chúa hiện hữu
thì Thiên Chúa không phải là một Đấng yêu thương, vì nếu yêu thương, cớ sao
Ngài lại để cho thế giới gặp nhiều bất hạnh khổ đau? Tại sao Thiên Chúa không
can thiệp, loại trừ những tác oai tác quái của nó?
Nói như thế thì chẳng khác chi tự dưng phủ nhận và khước từ sự
sống. Vì có sự sống nào ph&aaaacute;t sinh mà không có sự đau đớn. Có chồi
non nào mọc lên mà nhánh cây hay hạt giống đã không phải chịu nứt toác thân
mình.
Nhưng điều cần nói không phải là cứ trước những gian nan trắc trở
khổ đau của cuộc đời mà cho là không có Thiên Chúa, hay Thiên Chúa độc ác, bất
lực, không biết yêu thương. Song điểm đáng ghi nhận chính là: người càng tin
tưởng Thiên Chúa càng có sức mạnh để mang vác gánh nặng của cuộc đời; những ai
mà tâm càng thành lòng càng trong thì càng dễ cảm nghiệm và tin tưởng vào Chúa
hơn, cho dù gánh khổ của cuộc đời không vơi đi chút nào và cảnh chướng tai gai
mắt vẫn còn đó.
Tôi vẫn thích nhắc đến câu chuyện “Chúa Có Mắt Không” khi nói về
những sự ngang trái trong đời: Một buổi sáng đẹp trời nọ, một thầy dòng bước ra
vườn cây, vừa dạo cảnh thiên nhiên vừa cầu nguyện. Đứng trước hàng cây chôm
chôm, nhìn những chùm trái nho nhỏ xinh xinh, bên cạnh đó là gốc bí với những
hàng quả thật lớn bám trên những chiếc dây leo mỏng manh, bất chợt thầy nghĩ:
“Chẳng biết Chúa có mắt không! Tại sao những trái chôm chôm bé tí teo kia lại
mọc trên những cành cây cứng cáp chắc chắn, còn mấy trái bí khổng lồ như thế
này lại bám vào những dây leo tí tẹo? Chẳng hợp tình hợp lý chút nào. Tại sao
thứ mình thích thì lại nhỏ xíu, còn thứ không thích thì cứ to ơi là to?”
Trưa đó, sau lúc dạo và gặp phải ngày thời tiết nóng nực, thầy nằm
hóng mát dưới một gốc cây và thiu thiu ngủ lúc nào không hay. Một làn gió
thoảng qua. Cành lá rung động. Chợt một trái chôm chôm khô rơi trúng đầu thầy.
Giật mình bật dậy. Rồi như vừa tỉnh khỏi cơn mộng thầy quì xuống cầu nguyện:
“Ôi lạy Chúa, may mà Chúa có mắt, chứ để trái chôm chôm to bằng trái bí thì còn
gì cái đầu của con.”
Thiên Chúa biết rõ những gì tốt nhất cho chúng ta. Ngài luôn làm
mọi sự vì yêu thương con người. Vấn đề không phải là có Thiên Chúa không; Ngài
có mắt hay có tai không; nhưng vấn đề là con người có mở mắt, mở lòng, mở tai
để nhận ra sự hiện diện yêu thương và bàn tay quyền năng của Ngài không thôi.
Trước một sự cố trong đời, có kẻ chống Chúa, từ Chúa, nhưng cũng có người tin
yêu gắn bó với Ngài hơn. Thử hỏi bạn đang thuộc hạng người nào.
Lời của vị tu sĩ “Ôi lạy Chúa, may mà Chúa có mắt” sao nghe giống
lời của Tôma quá. Theo sự tường thuật của Thánh Kinh, chẳng thấy Tôma nhìn vào
vết đinh trên tay Chúa, cũng không xỏ bàn tay vào cạnh sườn Ngài, nhưng ông lại
cảm nghiệm được sự hiện hữu của Thiên Chúa cách rõ ràng.
“Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” hay “Lạy Chúa, đúng là Chúa
có mắt” chính là những lời tuyên xưng đức tin một cách sống động và hùng hồn vô
cùng.
Thiết tưởng đời người Kitô hữu cũng nên thấm được niềm xác tín
vững vàng như thế. Dù đứng trước phong ba bão táp, dù phải khốn đốn vì bao
thăng trầm của cuộc đời, hãy cứ tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn hiện hữu bên ta,
rất nhẹ nhàng và rất quyền năng: nhẹ nhàng như làn gió lay động nhành lá trong
vườn, và quyền năng như lúc cửa đóng kín mà Ngài vẫn đến được với các tông đồ.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của
thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha: - Ba ơi! Cái tháp đó để
làm gì vậy?
Người cha giải thích: - Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh,
hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu
ích cho đại chúng.
- Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!
- Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó,
con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ
ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!
Chiều Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng
mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay
sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả
Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón
tay vào cạnh sườn Thầy. Đứng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27).
Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa
của con” (Ga 20,28).
Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp
gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng
Thầy đã phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và
Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số, đó là tần số
Tình Yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy
ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con
mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy
nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên
bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên “người môn đệ Đức
Giêsu thương mến” (Ga 21,7).
Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô
thì “rất đỗi ngạc nhiên” còn Gioan thì “Ông đã thấy và ông đã tin”?
(Ga 20,8). Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến
với niềm tin, và Tôma cũng phải vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái
thấy của đức tin. Nhưng Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay những người đã không
thấy mà tin!” (Ga 20,29). Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.
Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ
của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “ngày thứ ba, (Người)
sẽ cho chúng ta chỗi dậy” (Hs 6,2) và phép lạ “ông Giôna ở trong bụng cá
ba ngày ba đêm” (Gn 2,1). Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn
chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.
Niềm tin vào mầu nhiệm phục sinh của chúng ta hôm nay không phải
là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm xác tín vào lời chứng chắc chắn của các
Tông Đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô
đứng chung với mười một Tông Đồ lớn tiếng tuyên bố rằng: “chính Đức Giêsu
đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”
(Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Đức Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của
chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin
của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình”
(1Cr 15,17).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để chúng
con tin Chúa mãnh liệt hơn.
Xin dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa
mãi là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen.
Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một
thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà
xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu
cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ
do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia
phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.
Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến
niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta
gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy
mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.
1. LẠY CHÚA TÔI, LẠY THIÊN CHÚA CỦA TÔI
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong
đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì
chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin.
Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc
bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy
vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.
Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của
cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở
thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ,
đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên
tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế
nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với
người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc
cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung
nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy
Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định
chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện
vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối
cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ
hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn
vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục sinh
rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ
trở thành hạnh phúc.
2. ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng
tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải
là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con
người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi
sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như thế
là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả
tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ
khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh
nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ
chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem
ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm
một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực
chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không
có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin
nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem
chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi
trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ
không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại
từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng
hãy tin!”
3. PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong
đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của
đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những
kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách
sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn
biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh
chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận
của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân
Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa
với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi
niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm
loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt
nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi
tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không
thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một
thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy,
Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải
nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh.
Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt
đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin
điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để
sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để
tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh
phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi
oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm
nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm
lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được
hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay
vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin”. Đó là thách thức của tông đồ Tôma. Đó cũng là đòi hỏi của
con người khoa học thực nghiệm ngày nay: phải thấy, phải đụng chạm, phải kiểm
nghiệm được mới tin.
Ngày 23 thánh 9 năm 1968, cha Piô, linh mục nổi tiếng dòng
Capucinô đã qua đời trong một tu viện tại Italia. Suốt 50 năm cha Piô mang năm
dấu thánh, nghĩa là trên hai tay, hai chân và ngực ngài được in năm vết thương
của Chúa Giêsu. Những vết thương mà Chúa Phục Sinh đã tỏ cho ông Tôma tông đồ
trong Tin Mừng hôm nay. Nhiều người trên khắp thế giới đã đến xưng tội với vị
linh mục thánh thiện này và tham dự thánh lễ cha cử hành. Khi cha Piô dâng lễ,
cả ngài và dân chúng đều nhận thức rõ ràng ngài mang trên thân thể ngài những
dấu thương tích mà Chúa đã chịu trên thập giá, những vết thương làm cha đau đớn
khôn tả. Thỉnh thoảng những giọt máu rỉ ra trên tay của cha, hai tay chỉ để
trần khi dâng lễ. Lúc khác, hai tay ngài được bao lại trong đôi gang tay màu
nâu. Khi dâng lễ, ngài thường gồng như một người vác thập giá. Ngài thường khóc
khi nhìn thánh Thể, mặt ngài như thiên thần, nhưng người có mặt cảm thấy bình
an.
Với một số người, câu chuyện của cha Piô coi như chuyện đạo đức
giả tưởng ở thời Trung cổ. Nhưng thực ra đây là một con người của Chúa sống
trong thế kỷ của chúng ta. Hằng trăm ngàn người thuộc đủ mọi tín ngưỡng hay
không tín ngưỡng đã thấy tận mắt, đã đến thăm viếng ngài. Ngài cũng chịu đủ mọi
khám nghiệm y khoa cũng như khoa học. Tất cả đều chứng minh rằng không có lối
giải thích tự nhiên nào đối với các vết thương trên cơ thể ngài. Và cũng không
có cách nào chữa trị được.
Chúa chọn vị linh mục thánh thiện này để chia sẻ nỗi khổ thể xác
của Con Chúa. Để làm cho sự chia sẻ này hiển nhiên hơn, xúc động hơn, Chúa đã
để cho xuất hiện những vết thương trên thân xác cha Piô. Và trong lịch sử đã có
hàng trăm người khác cũng đã được in dấu thánh, đặc biệt là cha Thánh Phanxicô
thành Assisi, để họ trở nên những nhân chứng sống động cho cuộc khổ nạn và Phục
Sinh của Đức Ktô.
Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng, nhưng là một Tin Mừng không
dễ tin, đặc biệt đối với những người theo Chúa, như các tông đồ. Nguyên sự kiện
ngôi mồ trống không đủ bằng chứng để họ tin. Cần phải có những lần hiện ra của
Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin của các ông. Thánh Gioan đã ghi lại câu
chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để chúng ta tin. Thế nhưng,
trong những lần hiện ra đó, cái gì đã giúp cho những người thân của Chúa Giêsu
nhận ra Ngài? Có thể là một tiếng gọi (với Maria), một cử chỉ bẻ bánh (với hai
môn đệ Emmau) hoặc cũng có thể là một phép lạ xẩy ra theo lệnh truyền của Chúa
(như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là những thương tích nơi tay
chân và cạnh sườn của Ngài. Ông Tôma đã thưa cùng với Chúa: “Lạy Chúa, lạy
Thiên Chúa của con” khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu đinh của cuộc khổ nạn
trên thân thể Ngài và nói với ông những lời không thể ngờ được: “Đặt ngón tay
vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.
Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!”.
Như thế, dấu chỉ để người nhận ra Chúa Phục Sinh không phải là
vinh quang chói lọi hay cái gì khác, mà làchính dấu đinh. Nếu chính Đứng
Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh quang và sức mạnh chiến thắng của
mình mà khuất phục thế gian, thì phương chi là chúng ta. và nếu Chúa đã muốn
dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn làm những dấu chứng phục sinh,
thì mỗi người chúng ta cũng không có dấu chỉ nào ý nghĩa hơn là những vết
thương của các cuộc khổ nạn mà chúng ta có thể đã, đang và sẽ còn chia sẻ với
Chúa. Chính với những dấu chỉ này mà chúng ta có thể làm chứng cho Chuá Phục
Sinh một cách sống động nhất. Từ hơn 2000 năm nay, Thánh giá mới thực sự là
biểu hiện vinh quang, và dấu đinh mới là dấu chỉ của Chúa Phục Sinh. Hãy nhận
ra Chúa nơi năm dấu thánh, chứ không phải trong ánh hào quang. Chúa Kitô thực
sự là “người” khi “đầu đội vòng gai, mình mặc áo đỏ” (Ga 19,5) nghĩa là khi
Ngài bị đánh đập sỉ vả; Ngài thực sự là “Chúa” khi bị đóng đinh trên thập giá.
Ngày nay Ngài cũng vẫn đang hiện diện giữa chúng ta như là “người” và là “Chúa”
trong những người anh em bị đau khổ, bị ngược đãi, sỉ nhục, bị tù đày, tra tấn,
bị đói khát, trần truồng, bị chối bỏ, bị giết vì tình yêu Thiên Chúa và tình
yêu nhân loại.
Nhưng thưa anh chị em,
Giáo hội nói chung và mỗi người tín hữu chúng ta nói riêng có sẵn
sàng mang dấu tích của Chúa Phục Sinh, có sẵn sàng trở nên khí cụ bình an của
Chúa hay không? Nói khác đi, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ, chịu đóng đinh
để làm chứng cho Chúa Phục Sinh không? Có sẵn sàng hoà giải nhân loại với Chúa,
hoà giải nhân loại với nhau, bằng những hy sinh và cả giá máu mà chúng ta phải
sẵn sàng đổ ra hay không?
Con người ngày nay không dễ tin. Họ cũng đòi hỏi như ông Tôma,
phải được trông thấy, phải được kiểm nghiệm, phải có dấu chứng khả giác mới
chịu tin. Chúng ta có nghiệm vụ trình bày cho họ thấy rõ khuôn mặt thật của
Chúa Phục Sinh. Làm sao họ có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, nếu họ
không nhìn thấy những vết thương, những chứng tích của Chúa Kitô đóng đinh nơi
tay chân, nơi thân xác, nơi cuộc sống cuả người Kitô hữu? Làm sao họ có thể tin
được, nếu họ không thấy chứng tích của những bàn tay chai cứng vì lao động, của
những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, của những cuộc đời xả thân hy sinh cho
tha nhân? Làm sao có thể tin được, nếu họ không thấy dấu chứng của cộng đoàn
Kitô hữu tương tự như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem sau ngày Chúa
Phục Sinh theo sách Công vụ mô tả: “Những kẻ tin, muôn người như một,
chuyện cần với lời giảng dạy của các tông đồ, hiệp nhất và cùng chung lo cho
người nghèo khó bằng cách để chung tiền của, họ đồng tâm nhất trí chia sẻ bánh
thánh và cầu nguyện”. Đời sống chứng tá đó đã thu hút những người không
tin, nên “số những người tin Chúa mỗi ngày càng thêm đông” (X. Cv 4,32-35;
2,42-47). Đó chính là chứng tích của tình yêu. Con người ngày nay cũng đang đòi
kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu của cộng đoàn Kitô hữu chúng ta. Đạo của
anh là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chững chứng
tích tình yêu của anh đi!
Ước gì mỗi người chúng ta đều mang những chứng tích tình yêu của
Chúa Kitô đóng đinh trên tay chân, trên thân xác, trong cuộc sống… để chia sẻ
với Chúa Giêsu những vết thương của các cuộc khổ nạn đang diễn ra trên thế giới
ngày nay, nhờ đó chúng ta mới có thể làm chứng cho chiến thắng vinh quang của
Chúa Kitô Phục Sinh.
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người… và không đặt tay vào
cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Một hôm ma quỷ muốn cám dỗ Thánh Martinô vào đường sai lạc, hắn
hiện hình một vị vua oai phong đến bảo Thánh nhân:
- Hỡi Martinô, Cha cám ơn con đã tin Cha. Con biết rằng Cha luôn
tin tưởng con. Cha mong từ nay con luôn ở bên Cha và tín nhiệm vào Cha.
Martinô chăm chú nhìn vào ông vua và hỏi:
- Nhưng thưa ông, ông là ai vậy?
Ông vua đáp:
- Ta là Đấng Kitô đây mà!
Martinô lại hỏi:
- Vậy thì những vết thương bị đóng đinh ở tay chân Ngài đâu?
- Ta từ vinh quang trên trời xuống, nên đâu còn thương tích gì.
Martinô nói:
- Tôi không muốn nhìn Đức Kitô không thương tích.
Vua quỷ liền biến mất.
Đức Kitô khi đã Phục sinh vẫn giữ những thương tích của cuộc khổ
nạn và những lần xuất hiện đầu tiên, Chúa thường cho các môn đệ xem những
thương tích này để họ dễ nhận ra Chúa và cũng để nhắc lại cái chết với dấu tích
yêu thương trọng đại của Chúa đối với họ.
Qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa đã hiện ra với các Môn đệ
trong những buổi họp mặt thường lệ. Các tín hữu, bắt đầu có buổi họp hàng tuần.
Lễ hội đã chuyển từ ngày Sabat sang ngày Chúa nhật, ngày Chúa sống lại. Niềm
tin và phương thức thờ tự đã chuyển từ Cựu ước sang Tân ước, từ Do thái giáo
sang Kitô giáo. Mỗi Chúa nhật khi chúng ta họp nhau để phụng thờ Chúa đó là một
lễ Phục sinh, và Chúa ở giữa các tín hữu Người. Cho dù chúng ta khoá kín cửa,
cho dù tâm hồn ta còn ngổn ngang nhiều trở ngại, nhưng khi chúng a họp nhau lại
vì Danh Chúa, thì Chúa có mặt với chúng ta.
Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Chúa xuất hiện sau khi người sống
lại. Và lần xuất hiện thứ hai chú trọng đặc biệt tới Tôma. Tông đồ Tôma là
người nhiệt tình và thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy. Ông đã mạnh dạn biểu lộ nỗi
nghi nan trước sự kiện Chúa sống lại. Khi hiện ra lần sau, Chúa đã bảo ông
Tôma: “Đây là vết thương của Ta, Con hãy đặt tay vào và đừng hoài nghi nữa”. Có
lẽ Chúa đã mỉm cười trước sự nghi nan này. Chúa cho ta biết dù Người không có
mặt, Người vẫn nghe mọi lời nói, vẫn thấy mọi tâm tình, mọi suy tư của chúng
ta. Sự kiện đó giúp chúng ta dễ tin vào lời hứa của Chúa: “Thầy ở cùng các con mọi
ngày cho đến tận thế” cho dù chúng ta không thấy Chúa.
Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin, vẫn thi hành lời Chúa, vẫn
trung thành thực hiện sứ mệnh Chúa trao, đó là căn bản cuộc sống và của niềm
tin. Nhờ đó chúng ta đáng lãnh phần thưởng như lời Chúa: “Phúc cho ai không
thấy mà tin”.
Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con mỗi khi chúng con ngắm
nhìn những thương tích nơi chân tay và cạnh sườn Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
Chúng ta đang ở vào cuối tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Mầu nhiệm
Phục sinh là mầu nhiệm lớn lao hơn cả. Mầu nhiệm căn bản của Đức Tin chúng ta.
Thánh Phaolô nói: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì niềm tin của chúng ta vẫn
còn trong tội lỗi” (1 Cr 15, 17).
Tại Nhã điển, thủ đô Hy lạp, Phaolô gặp ngoài đường phố những bàn
thờ “kính thần vô danh”. Phaolô dùng sự kiện ấy làm nhập đề và giảng một bài
cho giới trí thức tại Tối cao Pháp viện. Ngài trình bày việc Chúa Giêsu đã Phục
sinh sống lại từ cõi chết. Vừa nghe đến việc người chết sống lại, một nhà trí
thức đứng lên, nhắc cho Phaolô biết lời của nhà hiền triết Eschyle rằng: “Khi
tro bụi đã uống máu một con người, người ấy không bao giờ sống lại”. Phaolô
buồn “rũ áo” đi đến cùng dân ngoại (Cv 17, 22-33).
Đạo Kitô giáo không phải là một triết lý theo quan niệm Hy lạp,
một thứ tam đoạn luận, mà là một cái gì cao siêu hơn: một mầu nhiệm, một sự
sống, một niềm Tin.
Mầu nhiệm ấy, Thiên Chúa không mặc khải cho người khôn ngoan hiền
triết mà cho kẻ bé mọn, để bẻ gãy sự kiêu căng của người khôn ngoan.
Bài Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng.
Chiều thứ nhất Phục sinh, các môn đệ họp nhau trong nhà Tiệc ly
nơi Chúa đã lập phép Thánh Thể thứ năm tuần trước và hứa rằng Ngài sẽ trở lại.
Bỗng nhưng, trong khi đóng cửa then cài, Ngài xuất hiện. Ngài đứng đó và nói:
Shalom - Bằng an cho các con. Ngài đến đem sự bìng an vui mừng cho họ và sai họ
đi phổ cập ơn cứu rỗi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con”. Chúa
Giêsu nhận lấy cho mình quyền năng tha tội, quyền năng của một Thiên Chúa (Mt
9, 2-8). Hôm nay, Ngài trao lại cho các môn đệ bằng một lời nói, bằng một hơi
thở, “Ngài thổi hơi trên họ và nói: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Các con tha tội
cho ai thì tội họ được tha, các con cầm tội ai thì tội họ bị cầm lại”. Ngày
khai thiên lập địa, Chúa thổi hơi ban sự sống cho nguyên tổ Ađam (St 2,7) thì
nay, hơi thở ấy chính là Ngôi Ba Thiên Chúa mà một trong hoa quả là bình an (Ga
5, 22).
Nhưng chiều hôm ấy, trong một nhóm môn đệ thiếu mặt Tôma, một con
người thực tế, khó bảo.
Người ta thường dùng giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt
thấy tai nghe, tay sờ đụng, nhưng người ta cũng dùng lý trí để kiểm chứng, dùng
niềm tin để tăng phần hiểu biết.
Tôma nghe các bạn cho biết, họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống
lại. Tôma không tin. Có lẽ ông nói: “Còn khuya tôi mới tin”, nếu tôi không kiểm
chứng bằng mắt thấy, tay sờ đụng. Thái độ của Tôma lại càng làm nổi bật sự hiển
nhiên của dữ kiện sống lại.
Hôm nay, Chúa hiện ra với các môn đệ có Tôma hiện diện. Chúa nhắc
lại các đòi hỏi của Tôma kéo dài cả tuần lễ nay. Tôma không biết làm gì hơn là
phủ phục xuống và tuyên xưng Đức Tin, “Lạy Chúa là Chúa Trời tôi”, một lời
tuyên xưng trong sáng, tóm tắt tất cả Tin Mừng của Gioan và của chúng ta.
Ngài là Cứu Chúa đã chết để đền tội ta nhưng nay Ngài đã phục sinh
trở về với Thiên Chúa, đồng hàng với Thiên Chúa, chính là Thiên Chúa. Trong dịp
này. Ngài cũng để cho chúng ta, qua Tôma, một mối phúc thật khác là phúc thật
Đức Tin. Ngài nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin, Phúc cho ai
không thấy mà tin” (Gio 20, 29). Đức Tin là một đặc ân của Thiên Chúa, người ta
có thể thành tâm đón nhận cũng như có thể, như dân Do thái xưa, từ chối ơn
Chúa.
Tại Lộ-Đức, Đức Mẹ đã ban nhiều ơn và làm nhiều phép lạ. Cách đây
50 năm, có hai người thời danh là Bác sĩ Alexis Carrel và nhà văn Emile Zola
cùng đi Lộ-đức để quan sát. Cả hai cũng chứng kiến một ơn lạ nhãn tiền. Tại nhà
ga Austerlitz, Zola gặp một người đàn bà hấp hối, bệnh lao đến thời kỳ tuyệt
vọng. Bà tên là Marie Lebranche, Zola nói: “Bà này đến Lộ-Đức khỏi bệnh thì tôi
tin!” Người đàn bà sắp chết đó đi tắm suối Đức Mẹ run rẩy nhưng sau đó chỗi
dậy, cất tiếng hát Ave Maria, rồi tự đi ra hang đá quì cầu nguyện một giờ. Bác
sĩ khám, phổi nguyên lành. Zola ứa nước mắt. Bác sĩ Carrel cũng xúc động, được
ơn trở lại. Bác sĩ viết cuốn “Hành trình Lộ-Đức” để nói lên sự thật; Zola chối
sự thật trong cuốn “Lourdes” của ông.
“Tôma, vì con thấy Thầy nên con tin. Phúc cho những ai không thấy
mà tin”.
Xin Chúa ban cho con mối phúc thật niềm Tin ấy.
Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là
cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng
thương xót nhìn kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay
chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố
diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra
nhu cầu của tha nhân để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành.
Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua dọc dài lịch sử cứu độ.
Khởi từ tội lỗi của Adam, Chúa không đoạn nghĩa dứt tình với Adam.
Chúa vẫn thương Adam và xót xa dường nào khi thấy Adam tủi hổ lẩn trốn trong
vườn địa đàng. Adam là kẻ phản bội làm sao dám vác mặt gặp Chúa. Tội lỗi làm
cho người ta mặc cảm, xấu hổ và lo sợ khi phải đối diện với sự thật. Thế nhưng
Adam phần nào đã bớt đi sự sợ hãi, bớt đi áp lực tâm lý khi nghe tiếng gọi:
"Adam, Adam ngươi đang ở đâu?". Âm thanh của tiếng gọi không mang âm
sắc của giận dữ hay quở mắng, nhưng tiếng gọi vẫn thân thương dịu ngọt, có điều
pha trộn chút âm điệu xót xa. "Phải chăng ngưoi đã ăn trái cây trong vườn
mà ta đã cấm?".
Tội có thể được tha, nhưng hình phạt vẫn phải chịu. Nhưng ai là
người phải chịu phạt thay cho tội Adam. Thiên Chúa không suy tính thiệt hơn.
Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời, lời hứa cứu độ đã được ban ra. Chính Ngôi
Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam và đền thay cho tội lỗi Adam. Có thể nói,
lòng thương xót của Chúa được tỏ bầy cụ thể và rõ nét trong cuộc đời của Chúa
Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người khác, luôn đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm
để thi ân giáng phúc. Cả trong những lúc đau khổ nhất của cuộc đời, Ngài vẫn
không nghĩ đến mình: Ngài xót thương các bà mẹ thành Giêrusalem "đừng than
khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu các người; Ngài xót thương những kẻ đã làm
hại mình, vì "họ không biết việc họ làm"; Đỉnh cao của lòng thương
xót đó là ơn tha tội và ban thưởng hạnh phúc trường sinh. Đó là đặc ân mà anh
trộm lành được diễm phúc đón nhận đầu tiên từ cây thập giá: "ngay đêm nay
ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Chính điểm này mà trong dịp giảng tĩnh tâm Giáo triều Rôma, Đức cố
hồngY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã nêu ra 10 điểm khiếm khuyết của Chúa Giêsu
trong đó có sự hay quên: chỉ 1 câu nói thành thật với chính mình
của tên trộm lành mà Chúa đã quên cả quá khứ tội lỗi của anh. Chỉ cần thấy bóng
dáng thằng con trời đánh bỏ nhà đi hoang nay thất thểu trở về là người cha đã
quên hết quá khứ đi hoang của người con. Lòng thương xót của Thiên Chúa là vậy.
Một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung mà vua Đavíiacute;t đã
từng nói lên rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững. Tình yêu Chúa cao hơn
tội lỗi chúng ta, đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.
Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện trong cuốn "Một Thiên
Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ" như sau:
Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn
bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối
nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong
giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục
không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi
xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là
Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa!
Bài Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các
tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô
kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi
Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như
Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông.
Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng
ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực thánh,
chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của mình
như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời cầu nguyện
cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.
Có lẽ đây là vấn đề mà những người Kitô hữu phải lo lắng quan tâm.
Vì qua báo chí và các phương tiện truyền hình truyền thanh chúng ta không khỏi
đau xót khi nhìn thấy một thế hệ trẻ sa đoạ, cuồng loạn và lạc mất hướng đi của
đời người. Con số thống kê về sì ke, ma túy, mại dâm, phá thai, bệnh nhân nhiễm
HIV hay Aid mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân, mà một ai đó đã nói một cách
mỉa mai rằng: những điều tốt thì không thấy tăng, nhưng tội phạm thì năm nào cũng
được nghe câu nói quen thuộc: "năm nay cao hơn năm trước".
Có lẽ Chúa cũng đang cần những con người thanh sạch như như ông
Lót trong thành Sôdôma. Ông đã bị dày vò bởi những cảnh đồi bại luân lý diễn ra
hằng ngày quanh mình. Ông cố thuyết phục dân thành ăn năn hầu tránh cơn thịnh
nộ của Thiên Chúa, nhưng không ai nghe ông. Rồi Abaraham cũng nài xin Chúa tha
thứ nhưng lại không kiếm được 10 người công chính, thế là cả thành bị tiêu
diệt.
Và hôm nay, Chúa đang cần có nhiều người như thánh nữ Faustina,
biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu
thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Biết phó dâng bản thân, gia đình và
nhân loại cho lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta hãy sám hối
về lỗi phạm của mình và hãy dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho kẻ có tội
được ơn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu long xót thương
tha thứ và ban bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn suy nghĩ về thái độ của Tôma.
Tôma không phải là một kẻ cứng lòng, ông chỉ muốn tin vào những gì là rõ ràng
và hiển nhiên. Vì thế, khi nhìn thấy Chúa, ông đã vội vã kêu lên:
- Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.
Và Chúa Giêsu đã nói một lời đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và
khích lệ:
- Phúc cho ai không trông thấy mà tin.
Có lẽ khi nói lời này Chúa Giêsu đã nghĩ tới hằng triệu triệu
người tin tưởng và trung thành phụng sự Ngài, dù chưa một lần nhìn thấy.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta chưa một lần nhìn thấy Ngài, chưa một
lần được đụng tới gấu áo Ngài, chưa một lần được nghe Ngài giảng, chưa một lần
được chứng kiến phép lạ Ngài làm. Dầu vậy, chúng ta vẫn tin tưởng, yêu mến và
thờ lạy Ngài.
Thế nhưng có kẻ đã bảo:
- Đó chỉ là một niềm tin tưởng mù quáng vào một người đã sống cách
đây hơn 2000 năm, niềm tin tưởng ấy không còn thích hợp với não trạng của con
người thời nay.
Tôi xin trả lời:
- Đức tin của chúng ta không mù quáng, nhưng dựa trên những cơ sở
vững chắc.
Thực vậy, sự hiện diện của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử như
sự hiện diện của César, của Khổng Tử. Hàng ngàn năm về trước, các tiên tri đã
loan báo và trong Tân Ước, cuộc đời Chúa Giêsu đã được xác định một cách rõ
ràng và cụ thể, cùng với những lời Ngài đã dạy và những việc Ngài đã làm. Qua
đó chúng ta thấy được rằng: Ngài là Thiên Chúa. Bởi vậy, chúng ta hãy tin tưởng
vào lời Chúa, dù lời ấy nó không phù hợp với sở thích và nguyện vọng riêng tư
của chúng ta.
Thế nhưng, có kẻ lại bảo:
- Nếu đó là những sự kiện cụ thể và hiển nhiên, tại sao không lôi
kéo được hết mọi kẻ tài cao và học rộng?
Dĩ nhiên chúng ta không chối cãi, ngày nay có nhiều người trí thức
vỗ ngực tự xưng mình là kẻ không tin tưởng. Để có một cái nhìn đứng đắn, chúng
ta cần phải xác định: Những chân lý siêu nhiên không phải là những chân lý toán
học như hai với hai là bốn. Để đón nhận, cần phải có một tâm hồn sẵn sàng. Đức
tin mãi mãi vẫn là một hồng ân của Thiên Chúa. Những đam mê vẩn đục thường là
những chướng ngại vật cản ngăn con đường đức tin.
Tôi xin lấy một thí dụ: Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô chết bốn
ngày sống lại. Đó là một sự kiện lạ lùng, thế nhưng, những kẻ chứng kiến đã có
phản ứng như thế nào? Phúc âm đã kể lại:
- Có những người đã tin vào Chúa, nhưng có những kẻ lại hậm hực
tức tối, để rồi tìm mọi cách để giết Chúa. Trước một sự kiện hiển nhiên như
thế, người thì bảo: Ngài thực là Thiên Chúa hãy tin vào Ngài. Kẻ thì bảo: Ông
ta là một tay nguy hiểm, cần phải khử trừ.
Ngày nay cũng thế. Có những nhà bác học Công giáo thì cũng có
những nhà bác học vô thần. Và đây chính là vai trò của tác dụng ơn Chúa trong
tâm hồn mỗi người. Người thì công nhận, kẻ thì từ khước và làm cho ơn Chúa trở
nên vô hiệu quả, như một câu danh ngôn đã nói:
- Chính trái tim làm cho đầu óc bị hư hỏng.
Cho đến tận cùng thời gian, nhân loại này luôn luôn chia thành hai
giới tuyến: Giới tuyến của những người tin tưởng vào Chúa và giới tuyến của
những kẻ chối bỏ Ngài. Cũng như trên thiên đàng vào thời nguyên thủy đã có
những thần lành và thần dữ. Vậy thì chúng ta thuộc về giới tuyến nào? Hãy tuyên
xưng đức tin như Tôma ngày xưa: Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi.
Trong cuốn “A Forgiving God In An Unforgiving World”, “Một Thiên
Chúa Tha Thứ Trong Một Thế Giới Không Tha Thứ”, của Ron Lee Davis, kể lại câu
chuyện về một linh mục người Phi Luật Tân như sau:
Vị linh mục là một người rất yêu mến Thiên Chúa, nhưng ông luôn
luôn bị ám ảnh bởi một tội bí ẩn đã phạm nhiều năm trước đây. Ngài đã ăn năn
sám hối, nhưng vẫn không cảm thấy bình an vì chưa cảm nhận được sự tha thứ của
Thiên Chúa. Trong giáo xứ của ngài có một người phụ nữ có lòng yêu mến Thiên
Chúa rất sâu xa và tuyên bố là được ơn biết những điều Chúa Giêsu muốn nói với
bà. Riêng vị linh mục lại không tin điều này. Để thử thách bà, ngài nói: “Lần
sau bà nói chuyện với Chúa Giêsu, tôi muốn hỏi Ngài xem tội của tôi đã phạm
trong thời gian còn học ở chủng viện là tội gì”. Người phụ nữ đã đồng ý.
Vài ngày sau đó, vị linh mục hỏi bà, “Này bà, bà đã gặp Chúa Giêsu
trong giấc mơ chưa?” Bà trả lời, “Rồi”, “Vậy bà có hỏi Ngài tôi đã phạm tội gì
trong chủng viện không?” ngài hỏi. “Có chứ”. “Vậy thì Ngài nói gì?” Người phụ
nữ mỉm cười và nói, “Một điều rất thú vị mà tôi chưa bao giờ nghe Ngài nói khi
tôi hỏi Ngài rằng cha đã phạm tội gì, Ngài chăm chú nhìn tôi và nói, “Ta chẳng
còn nhớ nữa!”
Thật vậy, khi hiện ra Chúa Giêsu đã không hề nhắc tới các việc ba
lần Phêrô chối Ngài, sự đào ngũ của các tông đồ ở vườn Giệtsimani, sự nghi ngờ
của Tôma. Ngài đã tha thứ tất cả! Đây là điều an ủi lớn cho chúng ta.
Tuy nhiên, Ngài đã đòi hỏi chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau:
“Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ
tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em
cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”.
Ngày 13.5.1881, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bị bắn bởi
Mehmet Ali Agca. Trong khi còn đang nằm trong phòng cấp cứu, ngài nói, “Tôi cầu
nguyện cho người anh em đã bắn tôi, và tôi thành thật tha thứ cho anh ta”. Vào
ngày 27.12.1983, ngài đã đến nhà tù thăm anh, nói chuyện và ôm anh.
Bà Barbara Reynolds trước đây là một ký giả của tờ nhật báo USA
Today. Khi còn bé đã bị lạm dụng tình dục bởi một người trong họ hàng. Đến tuổi
trưởng thành, bà gặp lại người đàn ông đó và đối chất với ông về sự kiện loạn
luân. Bà đã chia sẻ như sau: “Khi tôi đối chất với người họ hàng, kẻ đã lạm
dụng tình dục lúc tôi còn nhỏ. Một cách kỳ lạ, ông ta đã không nhận ra sự đau khổ
của tôi. Ông đã không năn nỉ xin tha thứ. Ông chỉ nhìn chằm chặp vào tôi với
những ánh mắt trống rỗng và chán chường, rồi nói, “Tôi như thế đó!” Do vậy tôi
có thể làm gì được? Bắn ông ta hả? Thưa kiện? Tránh mặt? Đến lúc đó ông ta vẫn
không hiểu. Có lẽ ông sẽ không bao giờ hiểu. Bởi vậy, tôi chỉ có thể làm được
hai điều. Trước hết, tôi bỏ đi, và không bao giờ nói chuyện với ông ta nữa. Thứ
đến, tôi đã tha thứ cho ông “.
Bà Reynolds kể rằng sau nhiều năm đi đến các nhà phân tích tâm lý
học, sự tha thứ vẫn là phương thuốc trị liệu tốt nhất. Chúng ta tha thứ cho
người khác không phải chỉ vì ích lợi linh hồn của người đã làm điều sai trái
cho chúng ta, nhưng còn vì ích lợi tinh thần của chính chúng ta. Tuy vậy, sự
tha thứ không phải dễ!
Cô Corrie Ten Boom đã diễn tả sự tha thứ giống như buông tay ra
khỏi sợi dây chuông. Bạn có bao giờ nhìn thấy một ngôi thánh đường với tháp
chuông cao vút chưa? Để nghe được tiếng chuông kêu, bạn phải kéo thật mạnh một
lúc. Ngay khi tiếng chuông đã bắt đầu vang lên, chỉ cần giật nhẹ tay theo đà
chuyển động. Bao lâu bạn tiếp tục kéo, chuông cứ vang. Cô Corrie đã so sánh
rằng sự tha thứ chính là buông tay ra khỏi sợi dây chuông. Đơn giản là như vậy!
Khi bạn làm như thế, tiếng chuông vẫn cứ tiếp tục vang, vì sự
chuyển động vẫn còn làm việc. Tuy nhiên, nếu bạn buông tay ra khỏi sợi dây,
tiếng chuông sẽ bắt đầu chậm lại, rồi dần dần ngưng hẳn. Giống như vậy, khi bạn
quyết định tha thứ, những cảm giác không tha thứ xưa kia có lẽ vẫn còn tiếp
tục, vì chúng vẫn còn nhiều chuyển động. Nhưng nếu bạn quyết định tha thứ, cái
tinh thần không tha thứ kia sẽ bắt đầu chậm lại và dần dần im bặt. Sự tha thứ
không phải là một cảm giác, nhưng là một hành động. Đó là buông tay ra khỏi sợi
dây oán thù.
Trong thành Giêrusalem, ai nấy đều rõ: Ông Giêsu, người làng
Nagiaret, đã chết. Thế nhưng, việc Ngài đột ngột sống lại đã gây nên nhiều thái
độ khác nhau: Tin và không tin, chấp nhận và chống đối. Chúng ta cùng nhau phân
tích thái độ của Tôma, vì nó rất gần gũi với chúng ta, cũng như soi sáng cho
chúng ta tin vào Đức Kitô Phục sinh hơn.
Trước hết tin là phải chấp nhận có một thế giới khác vượt ngoài
tầm tay và suy tưởng của chúng ta. Trong thời đại khoa học này, chúng ta dễ bị
cám dỗ, chỉ tin vào những gì thấy được và hợp lý mà thôi.
Chính vì thế một bác sĩ giải phẫu đã tuyên bố:
- Tôi đã mổ nhiều người nhưng chẳng thấy linh hồn ở đâu.
Hay như một phi hành gia sau lần bay quanh mặt trăng ba vòng cũng
tuyên bố:
- Tôi đã lên thật cao mà chẳng thấy Chúa nào ở trên trời cả.
Tôma cũng đòi phải thọc chính tay mình vào cạnh sườn Chúa thì ông
mới tin. Thường tình con người vẫn muốn coi mình là trung tâm điểm và bắt Thiên
Chúa phải thế này thế nọ thì chúng ta mới tin.
Tiếp đến, tin vào Chúa Phục sinh đòi chúng ta phải dám liều. Hai
người yêu nhau dù có tâm sự tính toán kỹ với nhau, nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn
phải dám liều. Biết ngày mai sẽ ra như thế nào. Nếu chắc chắn thì còn thề thốt
làm chi.
Chẳng bao giờ con người có thể hiểu hết về Thiên Chúa cũng như về
thế giới bên kia. Tin đây là tin Đấng đã chết mà nay sống lại, đồng thời Ngài
đã hứa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu sau khi chết.
Cũng như Tôma, chúng ta chỉ được nghe nói lại. Ngài là Đấng vô
hình và dường như luôn vắng bóng và im tiếng, dù Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta.
Tin như vậy không phải là dám liều, dán trao cả cuộc đời và con người chúng ta
vào tay Đấng vô hình đó sao. Với Tôma, tin Ngài sống lại có nghĩa là phải tiếp
tục từ bỏ những dự định riêng tư để bước theo Ngài.
Sau cùng, tin đòi phải chiến đấu. Đức tin không đem lại sự yên ổn.
Sở dĩ như vậy vì đức tin đòi phải phá hủy con người cũ trong chúng ta. Bởi đó
chúng ta phải chiến đấu với chính mình. Con người vẫn có khuynh hướng ôm chắc
lấy những gì có sẵn, không muốn đánh mất thế giới họ đã tạo ra như của cải, mạng
sống.
Tin vào Chúa Phục sinh là hướng cả cuộc sống về đời sau Chúa hứa.
Do đó, đức tin đòi chúng ta phải đặt lại giá trị tất cả những gì chúng ta đang
có hay sẽ kiếm được, ngay cả đến mạng sống. Nhiều khi đức tin còn đòi chúng ta
phải có thái độ dửng dưng và từ bỏ, nếu của cải, mạng sống ngăn cản Tin Mừng.
Nếu không chiến đấu với những khuynh hướng đi xuống như vậy, chúng ta sẽ bị kéo
ghì và ở lại mãi trong thế giới vật chất…
Hơn nữa, đó cũng chính là não trạng chung của những người chung
quanh. Họ sẽ trấn an để chúng ta sống như thể chẳng có Tin Mừng Phục sinh. Sống
ngược với não trạng trần thế ấy đòi chúng ta phải có một ý chí phấn đấu và mạnh
mẽ. Đáp lại, Tin Mừng thường làm chúng ta có cảm giác lạc lõng và bơ vơ, không
giống ai và bị thiệt thòi ở đời này.
Sống đức tin và đón nhận niềm vui của Đấng đã sống lại là điều khó
khăn, chúng ta luôn bị cám dỗ đặt lại vấn đề đức tin, linh hồn, đời sau, giống
như người Do Thái ngày xưa luôn muốn trở lại với kiếp nô lệ nhưng no nê, bảo
đảm, và bàn tay khỏi lo lắng và đòi hỏi.
Hãy vững niềm tin vì Chúa đã sống lại, Ngài ở với chúng ta luôn
mãi.
Ngày nay, người ta muốn đặt lại tất cả các vấn đề, kể cả vấn đề
niềm tin Chúa Kitô Phục sinh. Bởi thế, chúng ta không cảm thấy khó chịu với
tông đồ Tôma, là người đã không muốn chấp nhận những gì người ta nói, và chống
lại những điều được chấp nhận theo sự lôi cuốn của đám đông. Tôma khăng khăng
muốn chính mình kiểm chứng điều mà các tông đồ khác nói lại là chính họ đã được
thấy, được gặp Chúa Kitô Phục sinh. Đúng ra ông không có lý do chính đáng để
nghi ngờ nữa. Khiêm nhường một chút thì chắc hẳn ông đã dễ dàng chấp nhận rồi.
Nhưng như thế thì lại thiệt cho chúng ta, mất một bằng chứng cụ thể, sống động
về Chúa Kitô Phục sinh, và nhất là câu nói bất hủ của Chúa: “Phúc thay những
người không thấy mà tin”.
Đàng khác, khiển trách Tôma kém lòng tin thì Chúa đã khiển trách
với thái độ êm dịu và trìu mến: “Tôma, đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”.
Chúng ta thấy khác hẳn khi Chúa khiển trách những người Pharisêu hay các tông
đồ khác. Như thế, Chúa còn thông cảm nhiều với Tôma. Tại sao? Vì Chúa thấy
những thiếu sót của Tôma: ông không chống đối để đi đến việc từ chối đức tin,
nhưng là khát vọng thấy rõ hơn để tin. Bởi thế, trong thời đại chúng ta, có
phản chứng chăng nữa thì cũng đừng ngạc nhiên và lo lắng, ngược lại, phải hy
vọng, vì đó là thái độ tìm kiếm sâu xa, nó là dấu hiệu của lòng tin hoạt động
và tự do, của những người đang tìm kiếm, nhờ đó mà người ta khám phá ra những
giá trị chân thực. Do sự tìm kiếm này người ta nhận ra được điều chính yếu của
Kitô giáo là đức tin. Điều chính yếu ở đây là tin vào Đức Kitô.
Vậy đức tin là gì? Đức tin là tiếng kêu. Thật vậy, Tin Mừng đã nói
lên như thế. Khi Chúa Giêsu hiện ra đứng trước Tôma, thì ông run sợ và phát ra
tiếng kêu này “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. phải chăng chính
những lời bộc phát đó đã diễn tả điều sâu thẳm nhất nơi tâm hồn người ta? Phải
chăng đó là tiếng nói của trái tim, của tâm hồn, khắc hẳn với sự đắn đo so nghĩ
của con người để tìm những lời lẽ hợp tình hợp lý, trước khi muốn nói lên?
Những nơi khác trong Tin Mừng cũng cho thấy cảnh tương tự, như lời
tuyên xưng của Phêrô. Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?”
Thì Phêrô đã trả lời mà kêu lên: “Thầy là Đức Kiô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Và Chúa đã xác định ngay rằng đó là tiếng kêu đức tin: “Phêrô, con có phúc, vì
không phải xác thịt hay máu huyết tỏ cho con biết điều đó, nhưng là Cha Ta trên
trời”.
Cũng vậy, đám đông tụ họp bên Chúa Giêsu sau phép lạ hóa bánh, lúc
bấy giờ Chúa nói về bánh ban sự sống, Ngài làm cho họ chưng hửng khi Ngài quả
quyết: “Phải ăn thịt và uống máu Ngài mới được sự sống đời đời”, nghe Chúa nói
thế họ bỏ đi, còn các môn đệ ở lại, Chúa hỏi: “Anh em có muốn bỏ Thầy mà đi
không?” Một lần nữa, tiếng kêu lại vang lên và cũng là tiếng kêu của Phêrô: “Chúng
con sẽ theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Với Martha, chị của Lagiarô, Chúa đã hỏi bà: “Thầy là sự sống lại
và là sự sống, con có tin điều đó không?” Martha trả lời: “Con tin Thầy là Đức
Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Đó cũng là một tiếng kêu
tuyên xưng đức tin.
Đức tin là một tiếng kêu, nhưng sau đó là gì? Là nhận biết. Đối
với một vật nào đó thì người tìm ra, khám phá được. Nhưng đối với một người thì
người nhận biết. Đức tin là nhận biết một Đấng. Đức tin giống như tia chớp nơi
một người chồng đang chờ đợi một người vợ tương lai mà anh ta đã yêu thương. Và
rồi, giữa đám đông, anh đã nhận ra người anh thương yêu, chỉ có mình nàng thôi.
Đấng mà đức tin nhận biết là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài thôi.
Chúng ta tin Chúa Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa rồi, chúng ta
phải làm gì? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa
là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống. Đó là cách thẩm định đức
tin của chúng ta. Bất cứ du khách nào sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng đều
có thể rút ra một bài học. Dù muốn dù không, du khách nào cũng phải thán phục
tinh thần làm việc và óc thực dụng của người Mỹ. Người Mỹ không áp dụng chính
sách hay một phát minh mới như một đồ trang sức, mà ngược lại, họ tìm cách ứng
dụng vào đời sống thực tế.
Người Kitô hữu có thể nhìn vào đó để làm bài học cho đức tin của
mình. Chúng ta có ứng dụng đức tin vào đời sống hằng ngày không? Chúng ta tin
Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là Cha nhân từ. Niềm tin ấy có được thể hiện
bằng một cuộc sống tin tưởng, lạc quan, phó thác, hân hoan, ngay cả khi gặp
gian nan thử thách không? Chúng ta là tín hữu của Đấng đã sống và đã chết cho
tha nhân, và là Đấng dạy chúng ta phải sống yêu thương, bác ái với mọi người.
Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những việc làm cụ thể của yêu thương, quảng
đại, quên mình, tha thứ với mọi người không? Chúng ta tin có một cuộc sống mai
hậu, vĩnh cửu, bất diệt. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những hy sinh phấn
đấu không?
Đức tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy, chỉ có giá trị khi được thể
hiện bằng những việc làm cụ thể. Giống như cái đèn được đốt lên, cần đặt ở chỗ
cao để soi sáng cho mọi người, thì đức tin của chúng ta cũng cần phải được thắp
lên chiếu sáng cho mọi người. Nó cần phải được đốt lên một cách liên tục trong
cuộc sống hằng ngày.
Cuộc sống mỗi ngày với những độc điệu, phiền toái và thử thách của
nó, chính là nơi để chúng ta sống một cách cụ thể niềm tin của chúng ta. Những
mối tương quan hằng ngày với những người chung quanh chính là môi trường để
chúng ta diễn đạt niềm tin của chúng ta. Xin Chúa cho cả cuộc sống của chúng ta
trở thành chứng tích của tình yêu Chúa đối với mọi người. Và xin cho tất cả
những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.
0 nhận xét | Viết lời bình